(1940-45)
Xu Hướng Nhạc Hùng
Lưu Hữu Phước
Và Nhóm Tổng Hội Sinh Viên

Sinh viên Lưu Hữu Phước quê quán tại Miền Nam đã ra Hà Nội để theo học tại trường Thuốc vào lúc Tân Nhạc vừa thành hình. Ông tham gia vào phong trào nhạc mới, trước tiên, với vài bài hát nhỏ thuộc loại nhạc tình cảm như bài Hương Giang Dạ Khúc chẳng hạn, dùng âm giai ngũ cung Huế, hoặc bài Ru Con, dùng âm giai oán... hai bài này tôi thường hát trên sân khấu gánh hát rong ÐỨC HUY trong mấy năm 43-45. Khi xu hướng nhạc hướng đạo, nhạc vui tươi ra đời để dẫn tới nhạc hùng thì Lưu Hữu Phước đưa cho nhóm ÐỒNG VỌNG của Hoàng Quý ấn hành một số bài theo đúng tôn chỉ của nhóm đó như Vui Xuân, Bạn Ðường, Ði Hội Ðền Hùng...
Nhưng tới khi những bài ca có tính cách xưng tụng anh hùng, ngợi ca lịch sử ra đời và được hoan nghênh thì Lưu Hữu Phước và nhóm sinh viên trong Tổng Hội, với lối sống tập thể và chắc chắn đã có sự lãnh đạo chính trị trực tiếp hay gián tiếp của một tổ chức (Ðảng Dân Chủ?), đã tung ra hàng loạt những bài ca có giá trị và có khả năng nung nấu tinh thần yêu nước của tất cả mọi người, nhất là trong đám thanh niên nam nữ. Những trang sử oai hùng đã được viết ra bằng ca nhạc, lần này hay hơn những công trình của người tiền bối (như bản trường ca Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát, Phạm Ðình Toái chẳng hạn) vì, để xưng tụng lịch sử, bây giờ là những nhạc phẩm hoàn toàn mới mẻ, lời ca không còn bị đóng khung trong khuôn khổ thơ lục bát, nhạc điệu bay bổng trên những cung bực tân kỳ, nghệ thuật âm thanh biến đổi, nhạc khúc không còn tính chất gợi cảm (impressioniste) nhẹ nhàng mà là những tác phẩm tả thực (réaliste), là những bài có thể được gọi là siêu hùng ca (chant épique)...
Những bài như Bạch Ðằng Giang, Ải Chi Lăng, Hội Nghị Diên Hồng, Nam Tiến,
Hát Giang Trường Hận, Hờn Sông Gianh... là những công trình vĩ đại (so với
thời đó) không những bởi giá trị xã hội (vì xuất hiện đúng lúc quốc dân đang mong
chờ) mà còn bởi giá trị nghệ thuật của từng tác phẩm nữa. Bài Bạch Ðằng
Giang tuy mở đầu với một nét nhạc Tây phương nhưng đã được nhạc sĩ khéo léo
chia bài hát ra làm bốn đoạn.
Của nòi giống Tiên Rồng
Giống Lạc Hồng Nam Bắc Trung.
Dưới đáy dòng nước, ánh sáng vẩn vơ nhấp nhô
Hàng cây cao soi bóng
Gió cuốn muôn ngàn lau
Hồn ai đang phảng phất trong gió ? Cảm xiết bao...
Mây nước thiêng liêng còn ghi chép rành
Thời liệt oanh của bao người xưa trung chánh
Vì yêu quốc gia vui lòng hiến thân
Liều mình ra tay tuốt gươm bao lần...
Thời liệt oanh của bao người xưa trung chánh
Vì yêu quốc gia vui lòng hiến thân
Liều mình ra tay tuốt gươm bao lần...
Ngày nay ta noi tấm gương anh hùng
Dầu khó thế mấy, quyết cùng nhau bước
Làm cho rõ biết cháu con nòi giống Tiên Long.
Tiếng ai hò reo vang trời.
Chi Lăng ! Chi Lăng !
Bóng ai tranh hùng muôn đời.
Rừng thông rên siết dường như khóc dưới luồng bão
Lời ai nỉ non trong mây
Hồn ai thở than nơi này
Lời gió bay lời reo ngàn quân sĩ đã chết
Hồn gió hay hồn ai còn thương tiếc
Trời lung lay sấm vang, sét vang nổ lên ầm ầm
Ðồi non thung lũng đều long lở dưới hồi sấm
Lời ai? Phải chăng thần thánh?
Hồn ai? Phải chăng hùng anh?
Vì nước thét quân đột xông
Làm cho rõ giống Tiên Rồng.
Hồi nhớ tới vó câu tập tễnh lướt qua làn khói giáp chiến
Hồi nhớ tới bóng muôn cờ xí phất tung hùng vĩ cố tiến
Vì nước tuốt gươm xông pha
Lòng trung cứu dân lầm than
Ðồng hát khúc anh hùng ca
Bền gan quyết tâm cường tráng
Khuất Nam, bình Bắc oai hùng luôn tiến
Tiếng chiêng vang rền...
Sơn hà nguy biến
Hận thù đằng đằng
Biên thùy rung chuyển
Tuôn giày non sông rền vang tiếng vó câu
Gây oán nghìn thu...
Thần dân Tiên Long
Sơn hà nguy biến
Nào người hào hùng
Nên hòa hay chiến ?
Diên Hồng tâu lên cùng Minh đế báo ân
Hỡi đâu tứ dân ?
Ôi Thăng Long khói kinh kỳ phơi phới
Loa vang vang chiếu ban truyền bốn phương
Theo gió bay khắp miền sông núi réo đòi
Lòng dân Lạc Hồng nhìn non nước yêu quê hương
Giống anh hùng nâng cao trí lớn
Giống anh hùng đua sức tráng cường
Ta lên đường lòng mau tâu tới long nhan
Gìòng Lạc Hồng xin thề liều thân, liều thân
Ðường còn dài hờn vương trên quan tái
Xa xa trông áng mây đầu non đoài
Trông quân Nguyên tàn phá non sông nhà
Ðoạt thành trì toan xéo giày lăng miếu
Nhìn bao quân Thoát lấn xâm tràn nước ta
Ôi sông núi nhà rền tiếng muôn dân kêu la
Trước nhục nước nên hoà hay nên chiến ? QUYẾT CHIẾN !
Trước nhục nước nên hoà hay nên chiến ? QUYẾT CHIẾN !
Quyết chiến luôn !
Cứu nước nhà !
Nối chí dân hùng anh.
Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh ? HI SINH !
Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh ? HI SINH !
Thề liều thân cho sông núi !
Muôn năm lừng uy...
Ngoài những bài có tính chất lịch sử ca rõ rệt vừa kể trên, họ
Lưu cùng với những đồng chí của mình là Mai Văn Bộ, Huỳnh
(hay là Hoàng) Văn Tiểng đã soạn cho sinh viên, thanh niên
những bài như Tiếng Gọi Sinh Viên (sau này đổi tên là Tiếng
Gọi Thanh Niên và được các chính quyền miền Nam chọn làm
quốc ca), Lên Ðàng, Xếp Bút Nghiên... Sau này, ba người sinh
viên đó sẽ chung nhau mở một nhà xuất bản âm nhạc tại Saigòn
lấy tên là HOÀNG-MAI-LƯU, cũng như họ ký tên như vậy
trong những bản nhạc, ví dụ bài Hờn Sông Gianh được in ra, có
ghi rõ nhạc của Lưu Hữu Phước, lời của Hoàng Mai Lưu. Bài này
có chung một nhạc điệu với bài Hồn Tử Sĩ.
Sau khi soạn nhạc cho giới sinh viên, thanh niên, Lưu Hữu
Phước soạn cho thiếu niên những bài như Gieo Ánh Sáng, Thiếu
Sinh Hành Khúc, Reo Vang Bình Minh. Nhạc điệu cũng như lời
ca rất là vui tươi, trong sáng. Thiếu nữ cũng được xưng tụng trong
những bài Việt Nữ Gọi Ðoàn, Thiếu Nữ Việt Nam...
Lòng niên thiếu chan chứa hương xuân
Reo lên trong nắng mới, trong vui mới
Vì chị em : ấy hoa của đời.
Này chị em khắp nước Nam
Dịu dàng như những đóa hoa
Như những đóa hoa
Tô thắm cho sơn hà.
Hồn thanh xuân khuyến khích ta
Nào chị em cất tiếng ca
Ta cất tiếng ca
Vui vẻ thêm cho nước nhà !
Dường như Lưu Hữu Phước đã chọn con đường trở thành nhân vật chính thức ngay từ những ngày còn trẻ cho nên ông còn soạn - - trước và trong thời gian kháng chiến chống Pháp -- những bài như Lục Quân Trần Quốc Tuấn, Ngọn Cờ Dân Chủ, Âu Ca Việt Nam, Ðông Nam Á Châu Hành Khúc... Sau này ông còn soạn bài ca chính thức cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam dưới bút hiệu Huỳnh Minh Siêng.
Cũng vì con người chính trị của Lưu Hữu Phước được nổi bật trong lịch sử cận đại, người nhạc sĩ đầu tiên xứng đáng để trở thành một ông quan của chế độ, và cũng vì bản thân tác phẩm nhạc hùng của ông có giá trị nghệ thuật rất cao... cho nên người ta quên mất loại nhạc tình cảm của ông, theo tôi, rất có giá trị là những bài Hương Giang Dạ Khúc, Thượng Lộ Tiểu Khúc và nhất là hai vở ca kịch Con Thỏ Ngọc và Tục Lụy. Cũng có thể tại chính tác giả nữa, vì khi xuất bản bài Hương Giang Dạ Khúc, chàng sinh viên bụ bẫm họ Lưu còn rụt rè, đắn đo, không dám ký tên thật mà chỉ dám dùng nặc danh là nhạc sĩ không tên ! Có lẽ Ông đã nuôi lập trường rõ rệt của một chánh trị gia ngay từ lúc đó chăng? Nhưng khi phổ nhạc những lời thơ của Khái Hưng để hoàn thành vở ca kịch đầu tiên của nền Tân Nhạc Việt Nam là vở Tục Lụy thì ông không còn nhút nhát nữa. Nét nhạc tuyệt vời của ông đã làm cho thơ có cánh mà bay. Dân Hà Nội đã có dịp được thưởng thức những bài ca trong vở đó như Phiêu Phiêu Gió Reo Trên Ngàn, Ta Hãy Lắng Tai Nghe, Ta Là Một Nàng Thơ Trên Tiên Giới, Ta Là Một Gái Ðồng Trinh, Người Ði Săn, Hỡi Ánh Mai Hồng, Ta Là Một Tiếng Vang... v.v. Câu chuyện thần tiên của một Nàng Tiên bị người đi săn nơi hạ giới lấy mất đôi cánh, mang nặng không khí hồn bướm mơ tiên trong thời đại rất ngây thơ của chúng ta, trước khi bão tố của chiến tranh sẽ lùa tới và cướp mang đi (như anh thợ săn cướp đi đôi cánh thần của nàng tiên?)... Con Thỏ Ngọc cũng không kém phần thi vị, là một vở ca vũ nhạc kịch dành cho thiếu nhi. Rất tiếc là về sau, khi ông giữ chức vụ cao trong chính quyền, ta không thấy ông cho sống dậy hai vở ca vũ kịch tuyệt vời này, ông chối bỏ những tác phẩm này cho phù hợp với địa vị và lập trường chính trị chăng ?
Sở dĩ Lưu Hữu Phước có thể soạn được nhiều bài ca thuộc nhiều loại như vậy là vì ông có sẵn cái vốn nhạc Âu Phương mà đa số những nhà tiền phong trong phong trào Tân Nhạc cũng có. Sau nữa, ông lại còn được gửi đi Nga Xô để học nhạc từ A đến Z để rồi sẽ soạn ra những bài rất có giá trị...