(1938-45)
Xu Hướng Nhạc Tình
Duy Nhiên/Lãng Mạn/Trữ Tình
Nhóm MYOSOTIS
Hoa Lưu Ly
Thẩm Oánh

Sau khi Nguyễn văn Tuyên làm công việc ''hô hào âm nhạc cải cách'' và khi các nhóm âm nhạc ở miền Bắc thi đua nhau tung ra các bài hát mới thì xem chừng nhóm MYOSOTIS là nhóm có chủ trương rõ rệt nhất. Tuy về sau này, ta mới thấy họ công khai viết trên một tờ báo chuyên về âm nhạc là tờ Việt Nhạc (số 5, ngày 16-10-1948) về lối soạn nhạc của họ, nhưng qua một số bài được in ra và hát lên trong hai năm đầu (38-39) ta cũng thấy rõ ràng là họ đã và sẽ phải làm như Nguyễn văn Tuyên : xây dựng nhạc mới trên âm giai thất cung Tây Phương hay trên thang âm ngũ cung Việt Nam. Kể ra thì họ cũng còn một chọn lựa thứ ba nữa : soạn một ca khúc dung hòa cả hai hệ thống âm giai ngũ cung và thất cung.
Trong nhóm MYOSOTIS (tức là Hoa Lưu Ly), nổi bật lên trên hết là hai nhạc sĩ
Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước. Thẩm Oánh thì rõ ràng là muốn soạn nhạc
mới theo ngũ cung. Bài Khúc Yêu Ðương được đăng trên báo NGÀY NAY
vào cuối năm 1938 có thể được coi như bản đầu tay của họ Thẩm :
Về tới nơi đâu
Chiếc thuyền tình xa chìm nổi
Thuyền ơi hãy ghé vào bờ
Ðể tôi đỡ phải mong chờ
Mượn mái chèo mà đi kiếm người mơ...
Tuy nhiên nếu ta dựa vào nhạc diatonique Tây Phương thì ta cũng có thể nói rằng
bài Khúc Yêu Ðương được soạn với những nét nhạc "âm chuỗi" (arpege) :
Do Fa La Do Fa vì lối hành âm của bài này. Chắc chắn vào lúc đó, Thẩm Oánh
muốn bài hát của mình phải "theo ý nhạc Việt Nam và có cảm tưởng á đông"
nhưng chưa chắc ông đã có ý thức rõ rệt về hai loại nhạc ngũ cung và thất cung.
Ông cũng chưa phân biệt được sự khác nhau của ngũ cung Việt Nam và ngũ cung
Trung hoa cho nên đã đưa ra bài Xuân Về trong
đó ông dùng ngũ cung Trung Hoa có ''biến cung'' (pien) :
Cười trong nắng sáng tươi
Buông mành xuống tơ liễu soi hồ gương
Rờn màu sắc Xuân vừa sang
Ngàn muôn tiếng vang lừng ca
Chim ghép đôi tung trời bay
Và âu yếm bên ngàn hoa
Cô gái mơ màng say...
Nếu phân tích theo nhạc diatonique thì bài Xuân Về này được soạn với âm giai thất cung Sol La Si Do Re Mi Fa# Sol. Nhưng nếu phân tích theo nhạc ngũ cung thì ta thấy đoạn A và đoạn C được soạn với ngũ cung Ré Mi Sol La Si có biến cung Fa# và câu đầu của đoạn B được soạn với ngũ cung Ré Mi Sol La Si có biến cung Do. Tôi hồ nghi Thẩm Oánh là người thuộc dòng dõi Trung Hoa bởi vì họ Thẩm không phải là một họ thông thường của người Việt. Khi Thẩm Oánh chủ trương nhạc Việt Nam cải cách phải có cảm tưởng á đông thì cái ngũ cung Trung Hoa từ trong mạch máu của ông đã tuôn ra một cách rất tự nhiên.
Tuy nhiên, phân tích là để hiểu thêm về tác giả, ta sẽ thấy rằng dù bài Xuân Về có được soạn bằng âm giai ngũ cung Trung Hoa đi nữa, bài này vẫn được hát vang trên các đài phát thanh ở miền Nam cho tới hết mùa Xuân 1975.
Trong thời gian hình thành của Nhạc Cải Cách, Thẩm Oánh còn tung ra nhiều
bài hát thuộc nhiều loại khác nhau : Hồ Xưa, theo nhịp ba sở trường của ông;
Hồn Xuân với nhip fox trot khá giật gân; Có Ai Sang Ðò (soạn chung với
D.T.Tước); Cô Hàng Bán Hoa... Nếu ta coi lại những bản nhạc đầu tay của
Thẩm Oánh, ta sẽ thấy tuy ông muốn soạn nhạc ngũ cung để cho bản nhạc có
cảm tưởng á đông nhưng nhiều khi ông lấn qua nhạc diatonique. Ví dụ trong bài
Hồ Xưa, câu đầu thì chắc chắn là nét nhạc ngũ cung Sol La Do Ré Mi :
Hai chúng ta đã say sưa
Lái một chiếc thuyền mơ
Trên sóng lăn tăn...
Hôm nay vẫn nước hồ này
Ôi đắng cay có mình tôi
Lái thuyền, nước lênh đênh...
Sau khi đã soạn bài : Hồ Xưa, Thẩm Oánh đưa ra bài Có Ai Sang Ðò,
lần nay ông dùng ngũ cung rất là thuần túy : Do Ré Fa Sol La với Dạng (aspect) Ré Fa
Sol La Do, và có chuyển hệ qua Sol La Do Ré Mi. Chắc chắn vào lúc này ông vẫn
đinh ninh là mình soạn nhạc với nhạc pháp Tây Phương, dù rằng vẫn chủ trương giữ
vẻ nhạc á đông, cho nên trong một bản nhạc ngũ cung không có một nốt Sib nào, ông
cũng để một dấu "giáng" tại đầu khóa (armature), chủ ý cho ta thấy bài này nằm trong
giọng Fa majeur hoặc Re mineur. Ðược soạn với giai điệu ngũ cung, nhưng lại lồng
vào một nhịp điệu giống như tango, với câu cú 8 mesures, toàn bài gồm ba đoạn,
theo đúng nhạc pháp soạn nhạc Tây Phương hiện đại, bài
Có Ai Sang Ðò
này không được phổ biến lắm, nhưng tôi cũng xin ghi lại đây để chúng ta biết
qua "đường đi nước bước" của các vị đi trước :
Trăng vừa lên đắm say soi lòng sông
Bóng đêm tan giờ chờ mong
Nhớ nhung nhường cho ái ân
Trăng vừa lên mơn nước trôi
Trăng vừa lên âu yếm soi lòng sông
Có cô du thuyền tìm Xuân
Tiếng oanh mê hồn ca rằng
Có ai sang đò
Xuống thuyền em chèo giúp cho
Xuống đây lái chung con đò
Trên dòng ta cùng khoan hò
Ngập vườn, ong chuốt thanh tân
Rực mầu đắm sắc dương trần
Cho đời diêm dúa
Âm khúc ca ngân...
Thẩm Oánh sẽ không ngừng ở đó. Trong những năm tới, với sự phát triển của Tân Nhạc, nhất là khi ông giữ chức vụ cao ở Ðài Phát Thanh Saigon, ông còn cống hiến cho chúng ta nhiều tác phẩm khác trong nhiều thể loại khác nhau. Cho tới 1953-54 là lúc Tân Nhạc đang sửa soạn bước vào thời kỳ phát triển 2, Thẩm Oánh đã có hàng chục nhạc phẩm nằm trong cả hai xu hướng nhạc tình và nhạc hùng. Ông cũng thử thách soạn truyện ca như bản Thiếu Phụ Nam Xương và nhạc kịch QUÁN GIANG HỒ. Nhạc kịch này chưa hề được in ra và trình diễn.
Sau 1975, Thẩm Oánh ở lại Việt Nam cho tới 15 năm sau thì ông qua sống ở Hoa Kỳ rồi mất vào năm 1995.

Dương Thiệu Tước mới thật sự là người có nhiều sáng kiến trong thời gian khởi sự xây dựng một nền âm nhạc mới mẻ này. Ngay từ khi mọi người còn phải vay mượn nhạc điệu tây phương để soạn lời ca tiếng việt và gọi nó là ''bài ta theo điệu tây'' thì ông lại soạn những bài mà tôi dám gọi là ''bài tây theo điệu ta''.
Trước cái gọi là "biến cố tháng ba 1938" gây ra bởi Nguyễn văn Tuyên, Dương Thiệu Tước đã là người đánh đàn guitare hawaienne rất giỏi, chủ nhân của một cửa tiệm bán đàn ở phố Hàng Gai, Hà Nội và có mở cả lớp dạy đàn nữa. Trong sinh hoạt hằng tuần với các bạn nhạc sĩ tài tử của mình, ông đã sáng tác mấy bài mang những đầu đề bằng tiếng Pháp, như Joie d'aimer (Thú Yêu Ðương), Souvenance (Hồi Niệm), Ton Doux Sourire (Nụ Cười Êm Ái Của Em)... Lời ca của những bài này là do Thẩm Bích (anh ruột của Thẩm Oánh ) soạn, dĩ nhiên là bằng Pháp ngữ.
Có lẽ vì ông tự coi như đã nắm được nhạc pháp soạn nhạc Tây Phương, cho nên ông
đã tuyên bố, khi được phỏng vấn về cách soạn nhạc Việt Nam : "Nếu đã có nhà văn
Việt Nam viết văn bằng tiếng Pháp, thì nhà soạn nhạc Việt Nam cũng có thể viết
được những bản nhạc có âm điệu Tây Phương'' (báo Việt Nhạc số 5, ngày 16
tháng 10, 1948). Do đó, ngay trong năm 1938, ông đã cho in ra những ca khúc như
Tâm Hồn Anh Tìm Em, Một Ngày Mà Thôi, Bên Cây Lục Huyền Cầm, Dập Dìu Ong
Bướm... Bây giờ, nghĩa là 50 năm sau khi Tân Nhạc thành
hình, trong hoàn cảnh ở xa đất nước và rất thiếu thốn tài liệu, tôi cũng cố gắng sưu
tập những bản nhạc đầu tay của Dương Thiệu Tước để nghiên cứu những ca khúc
đầu tiên của Tân Nhạc. Và tôi khám phá ra rằng : Tuy nhạc sĩ họ Dương không câu
nệ trong việc soạn ca khúc Việt Nam với âm giai Tây Phương, nhưng trong những ca
khúc tuyệt vời mà ông viết trong thời kỳ thử thách của nhạc cải cách, đa số các nét
nhạc đều là nhạc ngũ cung Việt Nam. Ví dụ bài Tâm Hồn Anh Tìm
Em
Bài Trời Xanh Thẳm sẽ còn được hát mãi trong những thập niên sau vì nó đã
là bản nhạc tình, nghiêng nhiều về "nhạc tình đôi lứa", không còn là thứ nhạc tình chỉ
có ''than mây khóc gió'' mà thôi.Ðặc biệt hơn nữa, nhạc tình của Dương Thiệu Tước
luôn luôn là mối tình của những nhạc sĩ, của nghệ sĩ. Có ''so phím tơ, có nắn cung
đàn'' và sau này cũng vẫn có ''tơ chùng phím loan'' trong một bản nhạc tuyệt vời
của ông là bản Ngọc Lan. Nhạc Dương Thiệu Tước, theo tôi, là loại nhạc tình
tứ, nhưng cũng rất sang trọng. Ðó là những ca khúc tình ái thốt lên từ con tim của một
nghệ sĩ dòng dõi nhà quan.
Tưởng cũng nên ghi lại ở đây một ca khúc nữa của ông cũng dùng hai ngũ cung Do
Re Fa Sol La và Sol La Do Re Mi, bài Vừng Trăng Sáng mà nhiều ca sĩ đã hát
trong những năm 44-45. Giống như những tác phẩm của Thẩm Oánh, Dzoãn Mẫn
hay Văn Chung, bài này cũng vẫn nói đến chuyện yêu nhau bên hồ, dưới trăng,
trong chiều thu :
Nhưng sở dĩ nhạc của hai ông
Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước (cũng như của các
nhạc sĩ trẻ trong nhóm TRICEA mà tôi sẽ đả động tới trong những chương sau) được
mọi người biết tới trong giai đoạn đầu này, đó cũng là nhờ ở sự tích cực của một
người, tuy không có nhiều sáng tác nhưng đã có công kết hợp các nhóm để tổ chức
các buổi trình diễn nhạc mới. Ðó là nhạc sĩ Lê Ngọc Huỳnh, tác giả bản Trên Ðường
Hưng Quốc, vốn là người anh của quân nhạc trưởng tương lai Lê Như Khôi.
Lúc Tân nhạc mới ra đời, chưa có những giọng ca lớn để truyền bá bài bản mới,
sự phổ biến dựa vào việc ấn hành các bản nhạc hoặc dựa vào các buổi trình diễn
của những ban nhạc tài tử trong đó, ban nhạc Orchestre Amateur do Lê Ngọc Huỳnh
kết hợp một số đông các nhạc sĩ trong nhóm để thành lập, là ban nhạc quan trọng
nhất.
Trong những năm đầu của Tân Nhạc, tác phẩm của nhóm MYOSOTIS rất là nhiều,
nhưng không lưu truyền cho tới về sau, trừ một số bài nào đó, ngẫu nhiên được một
giọng ca lớn nào đó, ví dụ giọng Thái Thanh hay Kim Tước, hát lại trong những thập
niên sau. Ðó cũng là một điều đáng tiếc, vì xét ra những bản nhạc đầu mùa của hai
vị tiền phong Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh... có một hương vị rất trinh trắng, phản
ảnh một thời rất êm ả của chúng ta, trước khi những cơn cuồng phong kéo tới, liên
tiếp trong bốn, năm chục năm trời.
Nếu cần phải biết rõ hơn về tác giả để hiểu biết và yêu mến tác phẩm hơn, tôi thấy
trong hai vị sáng lập ra nhóm MYOSOTIS, Thẩm Oánh đã đạo mạo thì sẽ đạo mạo
suốt đời, còn Dương Thiệu Tước thì có một đời tình khá chuyển động. Sau 1975, với
tuổi hạc đã khá cao, ông còn kết duyên với một thiếu nữ rất trẻ và ''lão bạn'' này
vẫn ''sinh châu'' như thương. Mới hay, nhạc sĩ là hạng người thuộc nòi tình... cho
tới hơi thở cuối cùng.
Quay về với sự tìm hiểu trong giai đoạn thành lập của Tân Nhạc này, ta thấy sau một
thời gian ngắn, nhóm MYOSOTIS không còn là một nhóm thuần nhất nữa. Các thành
viên sẽ chia tay nhau, mỗi người đi theo hành trình riêng của mình. Nếu như sau này
Thẩm Oánh còn sáng tác thêm những bài mới thuộc nhiều loại khác nhau, thì Dương
Thiệu Tước ít khi chịu rời khỏi lĩnh vực nhạc tình tứ và cao sang đặc biệt của ông. Về
sau, khi nhạc dân ca được coi như phản ảnh đúng tâm hồn của dân tộc, Dương Thiệu
Tước quay hẳn về nhạc ngũ cung để cống hiến cho ta những bài hát bất hủ như
Tiếng Xưa, Ðêm Tàn Bến Ngự ... Rồi cũng trong ý muốn dung hoà cả hai hệ thống
âm nhạc Việt, Âu, tại mấy Ðài Phát Thanh ở Saigon, ông chủ trương hình thức
''cổ kim hoà điệu'' nghĩa là hoà tấu những bản nhạc mới với đàn tranh Việt Nam
cùng hoà điệu với giàn nhạc Tây Phương.
Từ 1946 cho tới 1953, nhạc phẩm của Dương Thiệu Tước được xuất bản rất
mạnh mẽ vì quanh ông không có ai là địch thủ cả. Hầu hết các nhạc sĩ trẻ và
có tài đã rời bỏ thành thị đi kháng chiến... Dương Thiệu Tước và một số nhạc sĩ
khác như Ðoàn Chuẩn, Từ Linh ở lại Hà Nội và soạn ra khá nhiều bản nhạc tình.
Rồi ông vào Saigon làm việc tại các Ðài Phát Thanh Pháp Á, Ðài Phát Thanh Quốc
Gia rồi làm giáo sư dạy nhạc tại Nhạc Viện Saigon cho tới khi ông mất vào năm
1996, khi ông 83 tuổi.
Theo lần sang lầu Thúy
Dưới trăng ngà sao huyền
Lòng anh giá băng
Trong bóng sương mờ...
Ngày đôi chúng ta còn thơ
So phím tơ bên thềm
Anh hoà theo lời em
Ngàn lời ca êm ái
Khiến anh đắm say hoài
Và giờ đây em thấy
Muôn ngàn lời không phai
Còn đâu như lúc xưa
Ngày đôi chúng ta còn thơ
Anh nắn cung đàn
Còn em thì biệt tăm...
Hôm nay Xuân đến với hoa
Thấy nắng Xuân êm đềm
Mà chẳng thấy am tìm đến
Bên sông anh đứng trông trời
Bao la mây xanh tuyệt vời
Nắn nót mấy cung đàn
Lòng thấy như nát tan...
Chiếu in trên hồ
Dưới làn trăng nước
Sóng lan nhấp nhô
Mặt hồ rung rinh
Dưới khung trời tím
Có anh cùng em
Chúng ta vui hoà
Trong một chiều thu
Ðắm say dưới trăng...
Ði Tới