(1938-45)
Xu Hướng Nhạc Tình
Duy Nhiên/Lãng Mạn/Trữ Tình
Nhóm Nam Ðịnh
Ðặng Thế Phong

Tiểu sử của ông được ghi trong ấn bản Con Thuyền Không Bếndo nhà xuất bản TINH HOA phát hành
tại Saigon vào năm 1964 như sau :
'' Ðặng Thế Phong sinh năm 1918, thứ nam của cụ Ðặng Hiển Thể, thông phán Sở Trước Bạ thành
phố Nam Ðịnh, là con thứ hai của một gia đình có sáu anh em, hai trai bốn gái. Thân phụ mất sớm, gia
đình thiếu thốn, ông phải bỏ dở học vấn khi đang học lớp 2ème année P.S. (bây giờ là lớp Ðệ Lục bậc
Trung Học Phổ Thông). Ông có lên Hà Nội theo học trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật với tư cách bàng thính
viên. Trong một kỳ thi, ông vẽ tranh cho báo HỌC SINH (chủ bút là Phạm Cao Củng) như truyện bằng
tranh Hoàng Tử Sọ Dừa, Giặc Cờ Ðen ỡ để lấy tiền ăn học. Mùa Xuân năm 1941 ông có đi Saigon rồi
Nam Vang. Ở Nam Vang ông có mở một lớp dạy nhạc. Ðến mùa Thu 1941 ông lại trở về Hà Nội. Lúc
sinh thời Ðặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo nên cuộc sống của ông thật là khổ cực, chật vật.
Ngoài tài sáng tác, ông còn là một ca sỹ, tuy chưa hẳn được là ténor nhưng giọng hát khá cao, đã nhiều
lần ra sân khấu mà lần đầu tiên ông hát bài Con Thuyền Không Bến tại rạp chiếu bóng Olympia
(phố Hàng Da) Hà Nội năm 1940. Ðến đầu 1942 thì ông từ giã cõi đời tại nhà, trên một căn gác hẹp
ở phố Hàng Ðồng vì bịnh lao (tuberculose péritonique). Ông hưởng thọ được 24 tuổi''.
Vào khoảng đầu mùa của Tân Nhạc này, trong khi các nhạc sĩ trẻ khác chỉ đưa ra những nhạc phẩm có tính chất thiên nhiên thì nhạc Ðặng Thế Phong đi thẳng vào lòng người và nói lên cái ''lãng mạn tính'' đặc biệt của thời đại.
Thời đại của những năm cuối thập niên 30 là thời đại của bà Tương Phố trong phạm vi thơ (Giọt Lệ Thu) và của Hoàng Ngọc Phách trong phạm vi tiểu thuyết (Tố Tâm) còn rớt lại, đồng thời cũng là thời đại của các thi nhân, văn nhân lãng mạn đang nổi tiếng như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Nhất Linh, Khái Hưng, Lê Văn Trương... Nếu đã có người nói rằng bất cứ một người Việt Nam nào cũng là một thi sĩ thì tôi cũng có thể nói rằng bất cứ một nhạc sĩ nào, vào lúc Tân Nhạc mới thành hình, cũng là nhạc sĩ lãng mạn cả ! Miền Bắc Việt là nơi có đầy đủ bốn mùa và mùa thu ở đây thì nên thơ không thua gì mùa thu ở Paris hay ở Ðông Kinh, Nam Kinh, Bắc Kinh gì đó...
Trong ba nhạc phẩm của Ðặng Thế Phong và cũng là ba bài trong số những bản nhạc
tình đầu tiên của Tân Nhạc Việt Nam, ta đều thấy mùa Thu hiển hiện một cách
bàng bạc, lung linh, quyến rũ. Bài Ðêm Thu
được soạn với nhạc thuật Tây Phương dùng nhịp valse chậm để diễn tả lòng người trước
cảnh đêm thu vắng vẻ :
Lòng ta xao xuyến lắng nghe lời hoa.
Cánh hoa vương buồn trong gió
Ánh hương yêu nhẹ nhàng say, gió lay.
Với một nét nhạc mineure rất đẹp, Ðặng Thế Phong dẫn ta vào một vườn trăng để, cũng
như Lê Thương trong Bản Ðàn Xuân, tình tự với các loài hoa. Nhưng có lẽ Ðặng
Thế Phong thấy trước được mệnh yểu của mình nên muốn mở lòng ra thật rộng để thâu
tóm vào đó tất cả cảnh vật chung quanh, từ tiếng côn trùng trong gió tới ánh sao
trong vũ trụ. Ca khúc có hai phần, một phần theo âm hưởng mineure của Tây Phương,
một phần nghiêng hẳn về nhạc ngũ cung Việt Nam (Ré Mi Sol La Si) :
Trong hàng cây trầm mơ.
Làn gió lướt tới cuốn đưa hồn ta phiêu diêu
Theo mây trắng trôi lờ lững
Ngàn muôn tiếng réo rắt
Côn trùng như than van
Mơ hồ theo gió lan.
Trăng xuống dần cỏ cây thêm âm thầm
Dâng buồn trong ánh sao
Như chiếu nhìn mắt ta bao lạnh lùng
Lay hồn ta rồi tan...
Nhưng bài Ðêm Thuchưa làm cho mọi người bị ám ảnh bằng bài hát thứ hai của
Ðặng Thế Phong, bài Con Thuyền Không Bến. Bây giờ, người nghệ sĩ không còn đứng trong khu vườn nhỏ của mình nữa, anh dắt ta ra trước cảnh thu về trên một dòng sông :
Ðêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi suôi dòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng...
Dường như Ðặng Thế Phong đã nói lên được tâm trạng của thanh niên nam nữ
trong thời đại. Họ sống dưới thời cai trị của thực dân và họ bơ vơ lạc lõng như những
con thuyền không bến. Nhưng con thuyền này phải là con thuyền trôi trên một dòng
sông dân tộc, dòng sông Thương (ai ơi) nước chảy đôi dòng. Quan trọng nhất là
con thuyền phải trôi trong một mùa thu Việt Nam có gió heo may, có sương lam mờ
chân mây, có gió van thông ngàn và có ánh trăng mờ chiếu... Nếu là con thuyền trôi
trong mùa hè hay trôi trên sông Seine (Paris) thì chưa chắc bài hát có thể quyến rũ và
ám ảnh chúng ta từ lâu và mãi mãi được :
Một con thuyền theo trăng trong
Trôi trên sông Thương (ai ôi) nước chẩy đôi dòng.
Biết đâu bờ bến ?
Thuyền ơi thuyền, trôi nơi đâu ?
Trôi trên sông Thương
Nào ai biết nông sâu ?
Bài Con Thuyền Không Bến còn có một ưu điểm là được soạn với một giai điệu
ngũ cung, dạng 2 (Ré Fa Sol La Do - nốt Mi trong bài chỉ là nốt thoáng qua) nghe như
hát sa mạc hay ngâm Kiều. Nhạc sĩ Pháp Debussy, khi đi tìm chất liệu mới trong nhạc
ngũ cung, đã có một câu nhạc tương tự như nét nhạc của câu hát mở đầu :
Ngoài ra, trong Con Thuyền Không Bến còn có những đoạn hát với "nhịp
chỏi" (syncope), một thứ nhịp ta thường thấy trong những bản hát Chèo :
Cùng ai trắc ẩn tấm lòng.
Biết bao buồn thương
Thuyền (syncope) mơ (syncope) buông suôi dòng
Bến mơ dù thiết tha (syncope)
Thuyền ơi, đừng chờ mong
Ánh trăng mờ chiếu
Một con thuyền trong đêm thâu
Trên sông bao la
Thuyền mơ bến nơi đâu ?
Từ khu vườn nhỏ ra tới sông dài, sông rộng, bây giờ Ðặng Thế Phong còn đi xa hơn
nữa, đi tới cuối cuộc đời của mình qua một ca khúc mà mới đầu anh định đặt tên
là Vạn Cổ Sầu. Ðó là
bài Giọt Mưa Thu :
Trời lắng u sầu mây hắt hiu ngừng trôi.
Nghe gió thoảng mơ hồ
Trong mưa thu ai khóc ai than hờ...
Bây giờ mùa thu đối với anh là một sự chia ly, sự chết chóc. Dương thế trong mùa
Thu bao la sầu, gió xa xôi vẫn về, mưa giăng mù lê thê và lũ chim non chiêm chiếp
kêu trên cành hay vợ chồng Ngâu sẽ mãi mãi khóc vì Thu...
Như nhủ trời xanh
Gió ngừng đi ! Mưa làm chi ?
Cho cõi đời lâm ly.
Hồn Thu tới nơi đây gieo buồn lây
Lòng vắng muôn bề không liếp che, gió về
Ai nức nở thương, đời châu buông mau
Dương thế bao la sầu.
Giọt Mưa Thu nghe như bản Nhạc Sầu trong thơ Huy Cận :
Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường.
. . . . . . . . . . . . . . . .
Từng tiếng lệ : ấy mộng sầu lá úa
Chim vui đâu ? Cây đã gẫy vài cành...
Trong bài Gịot Mưa Thu, Ðặng Thế Phong dung hợp cả hai âm giai thất cung Tây Phương và ngũ cung Việt Nam để nói lên cái hắt hiu, cái lâm ly, cái xa xôi của mùa Thu ngoài đời và trong đời mình. Với Gịot Mưa Thu, Ðặng Thế Phong còn cho ta thấy sự chuyển thể khéo léo trong ca nhạc Việt Nam loại mới, xứng đáng là sự nối dài của nhạc cổ truyền. Lối hành âm từ giọng Mi mineur qua La majeur ở nhiều đoạn trong bài Gịot Mưa Thu chẳng khác chi lối chuyển thể trong loại hát bồng mạc, sa mạc nhưng phong phú hơn. Nếu nghiên cứu theo lối Tây Phương thì ca khúc được xây dựng trên mode dorien rất gần gũi với một dạng trong ngũ cung Á Ðông. Âm vực của bài này rất rộng, nét nhạc đi từ nốt Si trầm vói lên tận Sol cao, cốt ý diễn tả cái sầu thiên cổ trong mùa thu, có mưa rơi không bao giờ ngừng.
Tôi có thể đoan chắc rằng những bản nhạc tình lãng mạn ra đời ngay sau đó như Buồn Tàn Thu, Thu Cô Liêu của Văn Cao, Thu Quyến Rũ, Lá Ðổ Muôn Chiều, Thu Ði Cho Lá Vàng Baycủa Ðoàn Chuẩn, Từ Linh, Tiếng Hát Chiều Thu của Tô Vũ v.v... đều khởi sự từ ba bài hát mùa thu của Ðặng Thế Phong. Rồi theo gót Ðặng Thế Phong, mùa Thu sẽ còn được xưng tụng nhiều lần nữa trong Nhạc Sử Việt Nam, khi thì làm cho một cuộc Cách Mạng có thêm chất lãng mạn Nhạc Tuổi Xanh) cái chết của một cuộc tình (Mùa Thu Chết) nhưng vào buổi bình minh của Tân Nhạc này, ta đã có một lúc ba bài hát tuyệt diệu của Ðặng Thế Phong, và ta chỉ còn biết tiếc thương cho người nghệ sĩ tài hoa bị thần bệnh cướp đi khi tuổi còn thanh xuân. Tôi sẽ còn có cơ hội nói thêm về Ðặng Thế Phong trong những bản tân nhạc theo xu hướng nhạc vui khoẻ. Bởi vì ông còn có những bài hát rất trong sáng mà ít người biết tới.

Ðặng Thế Phong sinh ra và lớn lên ở Nam Ðịnh nhưng tác giả ba bài hát tuyệt vời về muà Thu đã sớm bỏ thành Nam ra đi, giống như các thanh niên 'mắc bệnh giang hồ thời đó (thi sĩ Nguyễn Bính và tôi chẳng hạn), hay dản dị hơn, giống như tuổi trẻ thất nghiệp ở tỉnh nhà phải đi tha phương cầu thực tại miền rất xa như Nam Kỳ hay Cao Mên, rồi lại phải sớm lià bỏ cuộc đời... Còn lại ở Nam Ðịnh là các nhạc sĩ tài tử như Bùi Công Kỳ, Hoàng Trọng, Ðan Thọ... thì họ sẽ đóng góp rất nhiều vào sự thành hình và phát triển của Tân Nhạc Việt Nam.
Nhưng vào lúc âm nhạc cải cách mới được thành lập này, tại Nam Ðịnh, ngoài Ðặng Thế Phong ra, chỉ có Hoàng Trọng là có tác phẩm để tặng cho người ca sĩ bán-thời-gian là tôi, có thêm bài hát để biểu diễn trên sân khấu Cải Lương lưu động mang tên gánh ÐỨC HUY cùng với các nhạc phẩm của Văn Cao, Ðặng Thế Phong, Lê Thương... Tiếng Ðàn Ai là một trong những bản tango đầu tiên của Tân Nhạc và cũng là thể nhạc sở trường của Hoàng Trọng. Sau này, ông có khoảng vài chục bài Tango để dùng trong ban nhạc của ông mang tên Tiếng Tơ Ðồng.
Bài Tiếng Ðàn Ai có một nét nhạc mineur
chung
mà nhạc sĩ nào cũng dùng tới trong thời đó :
Hồn ai khóc trong đêm trường
Nhạc sầu ai buông
Trong sương rền khúc
Hồn ai quanh khuất
Dường như nhắn bao lời thương
Sầu tình chung khúc
Tầm tã châu buông
Ðàn lòng tràn bay
Vẳng đưa xa tiếng hờn
Ðàn sầu trầm buông
Chìm trong đêm tiếng thương
Ðàn ai theo gió
Dường như nhắn bao lời thương
Ðường tơ ai buông
Thánh thót kêu sương...
. . . . . .
Buồn ơi xa vắng
Buồn thương nhớ ôm bên lòng
Buồn ơi mênh mông
Thương mây cùng gió
Ðàn than chi đó
Lòng ta xót thương cùng mây
Ðàn than chi đó
Nhủ gió thương mây
Ngừng, ngừng đàn ai
Ðàn chi cũng nát lòng
Ðàn ngừng lời than
Lòng ta ôi nát tan
Ðàn than chi đó
Ðàn van gió thương giùm mây
Hồn ai quanh đây
Nhắn gió đưa mây...
Ngẩn ngơ thương nhớ đến cung đàn xưa
Một mùa trăng đã khắc se đường tơ
Heo may gió cách từng mùa
Ôi thơ mộng đâu còn nữa
Tôi vẫn tha thiết yêu ngày xưa
Ngày nào say đắm với cung đàn mơ
Ngày nào hai đứa dưới trăng mùa thu
Ðêm nao hát khúc tạ từ
Ðêm nay sầu lắng tương tư
Một muà thu xưa dưới vầng trăng hai đứa
Ðã hơn một lần mơ
Nào ngờ duyên xưa đã chìm trong thương nhớ
Ðã trôi vào xa xưa
Ai biết thương nhớ bao giờ nguôi
Lạnh lùng trông cánh lá khô nhẹ rơi
Tìm dư âm cũ nhớ nhau mà thôi
Ðêm đêm rõi bóng một người
Tôi đi tìm chốn xa xôi
. . . . . . .
Coda:
Tiếng xưa còn đó
Gió trăng còn đó
Thấy đâu người xưa?

Gặp nhau tại Hoa Kỳ trong năm 1990
-------------------------------------------------------------
(1) Ðó là chưa kể những bài ra đời cùng thời với bài TIẾNG ÐÀN AI của Hoàng Trọng như LỠ CUNG ÐÀN của Hoàng Giác, NGHỆ SĨ VỚI CÂY ÐÀN của Nguyễn Văn Khánh (coi chương nói về hai nghệ sĩ này)...
Ði Tới