Nhóm trẻ Mimi News thăm nhạc sĩ Phạm Duy
tại nhà riêng ở Midway City, tháng 2, 2002
(ảnh Etcetera)

Nhiều bài thông tin về vụ vinh danh này được liên tiếp đăng trên các báo, có bài là cuộc phỏng vấn, có bài là nhận định cá nhân, cũng có bài dành cho dư luận về tôi, như để "thanh minh thanh nga" vài điều gì đấy !

Tháng Năm 02 :
Phạm Duy, Một Đời Nhìn Lại

Mimi Studio và
Chương trình triển lãm
về nhạc sĩ Phạm Duy

Bài do Nguyễn Văn viết

"Bằng những đóng góp to lớn của mình cho âm nhạc Việt Nam, ông xứng đáng được vinh danh. Lẽ ra, chúng ta phải làm công việc này từ lâu, và không phải chỉ với riêng nhạc sĩ Phạm Duy, mà còn nhiều nghệ sĩ khác, những người cả đời đóng góp giá trị tinh thần cho văn hóa dân tộc, cũng cần được lưu tâm và vinh danh…"

Đó là lời phát biểu của cô Mimi, chủ nhân phòng sinh hoạt Mimi Studio, nói về những sinh hoạt xoay quanh chủ đề "Phạm Duy, Một Đời Nhìn Lại" trong tháng 5 năm 2002.

Khởi đi từ một chương trình âm nhạc đặc biệt, quy mô do Hội Ung Thư Việt-Mỹ (Vietnamese American Cancer Foundation -VACF) dự định tổ chức nhằm vinh danh đóng góp to lớn về âm nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy tại La Mirada Performing Arts Theater, thành phố La Mirada. Mimi Studio đã đề bạt với ban tổ chức khai triển thêm những sinh hoạt văn hóa đa dạng hơn, xoay quanh chủ đề chung là nhạc sĩ Phạm Duy.

Về phần nội dung, cô Mimi cho biết thêm: "Chúng tôi dự tính thực hiện liên tiếp 3 tuần lễ trong tháng 5 tới đây để nói về con người và sự nghiệp âm nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy qua các hình thức: Triển lãm, hội luận, hội thoại, trình diễn nhạc… để giới thiệu một cách sâu rộng những tác phẩm của người nhạc sĩ tài hoa này. Mimi Studio lãnh nhận phần triển lãm các hình ảnh, tài liệu, ấn phẩm âm nhạc, cũng như phối hợp với nhiều thân hữu, tổ chức các buổi nói chuyện, hội luận về âm nhạc cũng như con người Phạm Duy. Các buổi triển lãm, hội luận này sẽ được thông báo chi tiết cụ thể thêm về thời gian, địa điểm trong thời gian sắp tới."

Điểm đặc biệt đáng lưu ý trong sinh hoạt văn hóa này là sự tham gia của thế hệ dưới 40 tuổi, những người ít được nghe nhạc cũng như biết rõ về Phạm Duy. Sau 1975, nhạc Phạm Duy bị cấm phổ biến trong nước, nên lớp người sau không có cơ hội nghe nhiều, ra đến nước ngoài, với cuộc sống, môi trường mới khác biệt nhiều về văn hóa, thế hệ thứ hai có nhiều chọn lựa khác nên nhạc Phạm Duy trở nên một loại nhạc "cổ điển" đối với họ. Đạo diễn Charlie Nguyễn, người thực hiện một cuốn phim tài liệu về Phạm Duy (để trình chiếu trong dịp này) cho biết khi làm việc, nói chuyện với nhạc sĩ Phạm Duy giúp anh hiểu hơn về những biến động của đất nước thông qua âm nhạc. Y-Sa, người phụ trách chương trình Vòng chân trời văn học nghệ thuật cho đài VNCR viết kịch bản cho cuốn phim của Charlie, cũng như thực hiện các cuộc phỏng vấn, nói chuyện với nhạc sĩ Phạm Duy cũng rút ra được nhiều bài học bổ ích về lịch sử qua nhạc Phạm Duy. Nhiếp ảnh gia Nguyễn Hoàng Nam, người thực hiện triển lãm hình ảnh Phạm Duy của hôm nayđang làm việc ráo riết để ghi nhận những hình ảnh mới nhất trong cuộc sống hàng ngày của người nhạc sĩ lớn này. Nhóm Mimi News với Lê Vũ, Etcetera, Vũ Quí Hạo Nhiên, Vương Hương, Thủy Tiên… chuẩn bị thực hiện một số báo đặc biệt "chuyên đề" Phạm Duy cho tháng 5. Sự kết hợp làm việc của thế hệ thứ hai, nhằm đưa đến người nghe, người xem những thành quả, đóng góp lớn lao về âm nhạc cho Việt Nam của nhạc sĩ Phạm Duy là xứng đáng.

Chương trình "Phạm Duy, Một Đời Nhìn Lại" là sinh hoạt văn hóa đầu tiên có sự kết hợp của nhiều tổ chức, nhiều cá nhân thực hiện với mục đích văn hóa để vinh danh một cá nhân tiêu biểu cho âm nhạc Việt Nam. Chương trình đặt nặng về giá trị văn hóa. Số tiền thu được sẽ trao hết cho Hội Ung Thư Việt Mỹ.

Đây là bước khởi đầu ghi nhận những đóng góp đáng kể của các văn nghệ sĩ cho văn học nghệ thuật Việt Nam.


Phạm Duy và Dư Luận

Bài viết của BS Bích Liên

Tôi không thích ngôi lê đôi mách, và cũng không để ý đến chuyện đời tư của người khác. Phải nghe những chuyện thầm kín của bệnh nhân hàng ngày, nên không có "xì căng đan" gì là đáng kể nữa. Gần đây, khi cùng Hội Ung Thư Việt Mỹ tổ chức chương trình "Phạm Duy, Một Đời Nhìn Lại", tôi bị lôi kéo vào dư luận về nhạc sĩ Phạm Duy. Trước kia, chỉ có bệnh nhân gọi hỏi bệnh, bây giờ nào fax, nào e-mail về Phạm Duy gửi đến tới tấp. Định làm lơ, nhưng không được. Vì bây giờ bị kéo vào vòng nên tôi cần lên tiếng.

Bao nhiêu lời chê trách: nào là Phạm Duy thiếu đạo đức, tình ái lăng nhăng, nhạc tục, tham tiền, theo Cộng sản, lại vô tài vì đã 30 năm nay, ông không cứu nổi nền âm nhạc Việt đang giậm chân tại chỗ. Họ bảo ông già rồi, viết nhạc hết hay mà còn huênh hoang. Chính tôi và những người trong ban tổ chức cũng bị mắng là dựa hơi ông Phạm Duy để nổi tiếng.

Tôi suy nghĩ nhiều về những lời chỉ trích rất nặng lời đó. Dư luận có cái lý riêng. Phạm Duy có lăng nhăng, ông không dấu giếm là có bồ bịch (tuy chưa ai nhận là con rơi của ông). Nói theo tiêu chuẩn các vị thánh thì ông đúng là vô đạo đức. Ông chắc tham tiền, cũng như tôi vậy. Nếu phải chữa bệnh miễn phí cho tất cả mọi người để được ca tụng là "lương y như từ mẫu", mà không có tiền nuôi thân và gia đình, tôi sẽ không nhận danh hiệu này. Việc Phạm Duy dám về thăm Việt Nam và nói chuyện với những người có chức quyền (theo những e-mail tố cáo mà tôi nhận được). Trong cương vị của Phạm Duy, tôi cũng muốn có dịp về Việt Nam, và được nói chuyện với những kẻ ấy, may ra có giúp họ mở mang thêm kiến thức và thay đổi đường lối chăng? (Thế nào tôi cũng sẽ bị mắng là ngu quá, bị cộng sản nó lừa mà không biết. Nhưng cũng đành chịu thôi, vì hình như có nhiều người cũng ngu như tôi vậy). Ông lại thật không biết điều, già rồi thì đi chỗ khác chơi cho người khác có chỗ mà lên chứ, hơn 80 tuổi mà còn tối ngày soạn sách, thu thập tài liệu, viết lách, làm nhạc. Ông làm hết như vậy thì còn ai có cơ hội làm nữa, thật là ham danh.

Dư luận đòi hỏi quá nhiều ở nhạc sĩ Phạm Duy. Lúc nào sáng tác của ông cũng phải hay, không được dở. Một ngàn bài mà có năm mươi bài dở là công trình vất đi, thà không sáng tác được bài nào như tôi đây còn hay hơn (!). Ông phải là một nhà đạo đức, hay đạo đức giả cũng được. Ông phải uống nước lã mà sống, phải tránh xa những quan hệ nam nữ không chính đáng, nghĩa là ông phải là một ông thánh. Ông gặp ai cũng phải chắp tay nhún mình để được tiếng khiêm nhường. Ông phải tránh xa bọn cộng sản vì coi chừng sẽ bị lây cộng sản, dù ngày xưa ông đã từng chạy trốn cộng sản trong thời kháng chiến, và vẫn bị chế độ cộng sản coi như kẻ phản động vì những bản nhạc ca tụng tình người của ông. Ông đừng có tự do tư tưởng, mà phải theo sự lãnh đạo của những vị thánh hay to tiếng trong cộng đồng. Và nhất là ông đừng làm gì nữa. Người Việt chúng ta hay kính trọng người lớn tuổi và có công, nhưng chỉ thích những người làm ra vẻ khiêm nhường. Ai tự tin và năng động thì bị mắng là huênh hoang!

Phạm Duy chỉ là con người thôi! Ông có đủ thói hư tật xấu, và cả cái hay cái đẹp của một con người. Chỉ khác là Thượng Đế cho ông quá nhiều. Đó là số mệnh cuả thiên tài. Nhiều tài và nhiều "tật xấu" nên ông thông cảm con người, nhìn ra và diễn tả tuyệt vời những nét đẹp, nhưng không tránh né cái xấu xa của nhân loại. Vì thế, khi nghe hay hát nhạc Phạm Duy, chúng ta rung động và gần gũi một cách đặc biệt. Một vị thánh làm nhạc, sẽ không cho tôi những rung cảm thành thực như vậy.

Nhạc ông không phải bài nào cũng hay. Tôi không thích nhiều bài. Nhưng nói không ngoa cả đời tôi được nuôi bằng nhạc Phạm Duy. Từ những bài ru con à ơi nghe mẹ hát "từ khi mới ra đời"; đến những bài nhạc tuổi thơ hát lúc "một trời nam tròn trăng thu, em bé ra ngồi xem chú Cuội đâu"; rồi tuổi dậy thì mơ mộng "Em ước mơ mơ gì tuổi mười hai, tuổi mười ba", đến tình yêu lãng mạn chỉ dám " bỏ quên cây đàn" hay " uống ly chanh đường uống môi em ngọt"; rồi say đắm những dục tình bốc lửa của " Cỏ Hồng", cuả "Nha Trang Ngày Về"; rồi "Tôi yêu tiếng nước tôi, à à ơi tiếng ru muôn đời", những bước chân trên "Con Đường Cái Quan", những huyền thoại "Mẹ Việt Nam" cho tình yêu quê hương dân tộc; rồi hào khí ngất trời của thanh niên kháng chiến chống ngoại xâm với "Ngày bao hùng binh tiến lên, bờ cõi vang lừng câu quyết chiến"; qua đến những dằn vặt suy tư tâm linh của tuổi trung niên "Chiều xuống trên giòng sông Cửu Long, như một cơn ước mong, ơi chiều", đến những triết lý về Đạo, về Thiền, về Cái Chết và Sự Sống, về cõi Vô Hạn..., của tuổi già, và nhiều nhiều nữa. Với nhạc Phạm Duy, chúng ta lữ hành qua cuộc đời với đủ ngọt bùi, cay đắng, tham sân si, thất tình lục dục, tuyệt vọng, hi vọng, thăng hoa, và giải thoát.

Dư luận có lý lẽ riêng. Nhưng nếu chúng ta khắt khe với Phạm Duy, sao không khe khắt hơn với chính mình: "Tôi đã làm được gì cho đời?"

Mỗi viên đá chúng ta định ném ra, hãy xem lại, kẻo ném phải chính mình. Hãy dịu lại đôi mắt nhìn và mở rộng tấm lòng để cám ơn những ai đang làm đẹp cuộc đời. Ta sẽ thấy đời còn đẹp lắm.

Nguyễn Bích Liên


Ấn tượng Phạm Duy

Bài viết của Etcetera.

Tháng năm, quận Cam có một buổi hòa nhạc, hát và nghe 50 năm nhạc Phạm Duy. Vinh danh. Dấy lên những bàn tán đánh giá về âm nhạc và ngay cả con người của ông. Số báo VĂN, một tờ báo nhận định về nghệ thuật và văn học cũng có một số đặc biệt với bài vở của nhiều nhà phê bình nổi tiếng của Việt nam. Đề tài Phạm Duy là một sự hấp dẫn tự nhiên, gần như ai cũng có thể nói ít nhất là một vài điều gì đó về Phạm Duy. Có người đã từng gặp Phạm Duy, đã từng nói chuyện với ông, đã từng đọc sách của ông, đã từng nghe kể về ông và hầu như ai ai cũng đã từng nghe nhạc của ông. Nhiều người công nhận ông là một nhạc sĩ tài hoa, có người chê ông thiếu đạo đức, tuy nhiên điểm đặc biệt là, khi nói về Phạm Duy, họ thường nói với một mức độ xác tín rất cao, gần như họ cam chắc là họ rất hiểu và nắm bắt được Phạm Duy.

Đối với những người trẻ hơn, trong nước cũng như ở ngoài nước, họ ít biết về Phạm Duy hơn, vì lẽ trong hơn mười năm gần đây, ông ít khi xuất hiện trước công chúng. Nhà ông ở Midway City, rất gần trung tâm thương mại của người Việt ở Little Sàigòn, MimiNews chúng tôi đến hỏi chuyện và để nắm bắt gần hơn con người hiện tại và suy nghĩ của Phạm Duy.

1. Gần đây bác làm gì ?
"Tôi làm thinh." Sau khi nhà tôi mất, tôi không làm gì hết, song sau khi về Việt nam, tôi hoàn tất được "Hồi ký" và "Minh Hoạ Kiều II"

2. Về Việt nam để làm gì ?
Đi tìm mồ mả gia tiên và tìm những người trong họ còn sống. Tôi khám phá ra mình là người trưởng họ, người cao tuổi nhất trong làng Phượng Dực, Hà-Tây.
Ngoài ra, thì gặp gỡ bạn bè cũ như Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, Đoàn Chuẩn khi đó còn sống, và nhiều người khác nữa.

3. Bác trao đổi với bạn bè cũ những điều gì ?
Không ai nói với ai điều gì, nhưng đầy dẫy tâm sự. Nói với nhau bằng một sức im lặng. Chúng tôi có cái lạ lắm, không ai nói với ai một lời nào cả, nhưng đầy dẫy tâm sự. Có thể nói chúng tôi nói chuyện với nhau bằng một sức im lặng. Hình như giữa chúng tôi có một cái ngôn ngữ nào mà không cần phải nói ra. Theo tôi đó là tình tự dân tộc. Tình tự dân tộc có thể là ghét bỏ nhau, có thể là yêu mến nhau, có thể là quý trọng nhau. Chúng tôi đã biết cái nguyên nhân vì đâu có sự chia rẽ nhau, giết chóc lẫn nhau, hận thù nhau. Bao giờ tôi cũng lấy cái đại độ nhìn rõ sự việc để đối xử với nhau.

4. Bác có đi nhiều nơi ở Việt nam không?
Tôi đi xem phong cảnh, ra Hòn Gay, nghe nhạc trên sông Hương ở Huế, vào Quảng Nam thăm Hội An. Ở phía Nam, ra tận Hàm Tân và ghé thăm Phan Thiết là chiếc nôi ái tình của tôi.

5. Phản ứng của dân chúng như thế nào ?
Có điều may mắn là đa phần dân chúng không nhận ra tôi, nhưng mà khi nhận ra thì như đám rước vậy. Sự thật thì tôi chỉ muốn yên thân, không muốn ồn ào. Ồn ào đối với người trong nước thì không nên, đối với người ngoài này thì càng không nên nữa.

6. Sự đón nhận âm nhạc Phạm Duy ra sao ?
Trước kia thì tôi băn khoăn lắm, đến độ đau khổ, vì tôi cho rằng nhạc của tôi vắng tiếng ở Hà nội 50 năm qua và ở Sài gòn 25 năm qua.
Người nghệ sĩ nào mà không muốn khoe những sáng tác của mình. Tôi cứ tưởng ở ngoài Bắc thì họ biết đến bài "Về Miền Trung" là hết, và trong Nam thì đến bài "Này Cô Em Bắc Kỳ Nho Nhỏ" thì hết, thế nhưng tôi lầm hoàn toàn. Ở bên nhà họ thuộc nhạc của tôi còn hơn tôi. Có người tặng tôi đến 60 đĩa CD sưu tập nhạc Phạm Duy. Phản ứng của người ngoài Bắc thì họ thú vị hơn so với trong Nam, vì nhạc của tôi đối với họ còn mới mẻ.
Và nhờ biết được như vậy nên tôi không còn thắc mắc nữa. Bây giờ thì coi như là tôi xong rồi, tất cả sự nghiệp của tôi nằm trong computer hết rồi. Tôi có thể chết được rồi mà không có phải thắc mắc như ông Văn Cao hay ông Trịnh Công Sơn.

7. Bác muốn nói gì qua âm nhạc?
Tôi là một người "khóc cười theo mệnh nước" và tôi đã nói hết những điều đó qua những tác phẩm của tôi rồi. Trong số người nghe, tôi xin cám ơn những người như Thụy Khuê, Đoàn Xuân Kiên nói lên được cái đại quan cũng như cái vi mô của tôi.

6. Nhìn về Việt nam từ hải ngọai, bác nghĩ gì ?
Không có giây phút nào trong 26 năm qua mà tôi không nghĩ đến nước Việt nam. Tôi đều ước mong là nó sẽ tiến bộ như những nơi mà mình đã nhìn thấy. Thế nhưng làm sao được mỗi đất nước có một lịch sử riêng. Là một người nghệ sĩ tôi ước mong thấy một Việt nam thống nhất lòng người, nhưng mà cho đến bây giờ vẫn chưa có được. Đành vậy thôi. Tôi nghĩ lịch sử có nhiều ngẫu nhiên cuộc đời chứ không phải ai muốn mà được.

7. Bác có lạc quan về con người Việt nam, đất nước Việt nam không ?
Nhìn lại 500 năm lịch sử Việt nam, thì sự chia rẽ triền miên, muốn giải quyết trong một tháng trời thì làm sao được. Tuy nhiên, một điểm mà tôi rất lạc quan, là con người Việt nam vẫn không thay đổi sau bao nhiêu thăng trầm như vậy. Con người Việt nam vẫn là Việt nam như tôi biết, như tôi vẫn từng yêu quý. Càng đi về vùng quê, thì càng rõ ràng như vậy.

8. Còn con người Việt nam hải ngoại thì sao?
Con người Việt nam bị đánh bật cái gốc ra ngoài này rồi, thì còn rất ít người còn giữ được, vì hoàn cảnh đời sống. Ví dụ như người Việt nam chúng ta xưa kia đại lượng lắm, "chín bỏ làm mười" cơ mà, nhưng bây ở đây chúng ta có được thế đâu ? Toàn là giả tạo cả. Ví dụ như cuộc sống hiện thực ở đây rõ mồn một, nhưng các nghệ sĩ đều than cạn đề tài cả. Cộng đồng Việt nam ở đây có nhiều tật xấu, nhưng không ai dám nói ra. Ai cũng sợ dây bẩn cả. Thì nó sẽ bẩn. Có thể là tôi nói sai, nhưng suy nghĩ của tôi là thế.

9. Khoảng cách với Phạm Duy ?
Sở dĩ hiện nay có sự ly dị giữa người nghệ sĩ nói chung với quần chúng thưởng ngoạn là do hoàn cảnh. Trong cộng đồng Việt nam hiện nay, ai là người lo tổ chức những sinh hoạt văn hoá. Chỉ có những tờ báo, nhưng chỉ lo nuôi sống cho tự họ không thôi cũng là khó quá. Thành thử lại phải dùng đến vấn đề chính trị. Mà chính trị thì phải mị dân, thì phải làm ồn lên cho người ta mua báo của mình. Trong lãnh vực văn nghệ, thì xưng tụng theo đồng tiền, thành nó tạo ra một sự náo loạn. Trong những tổ chức văn nghệ thì đưa ra sự hở hang, đề cao cái sex. Họ có cái lý của họ, có thể là nhạc của tôi không còn ăn khách nữa. Nhưng là một nghệ sĩ, tôi phải tránh xa những sinh họat như vậy. Sự cách biệt đó, chủ quan cũng có, khách quan cũng có, nhưng nó phải xảy ra thôi.

7. Đánh giá về nền âm nhạc bên trong Việt nam hiện tại.
Khó nói, nhưng nói chung về phương diện tổ chức và tài năng, thì họ có nhiều lắm. Nhưng họ bị đóng khung thành ra không có nổi bật lên được. So với thời kỳ ông Diệm, thời kỳ ông Thiệu, mặc dù có kiểm duyệt, nhưng dù sao cũng không đến nỗi nào, chúng tôi không bị đóng khung mấy.
Vì tôi về Việt nam trong một thời gian ngắn ngủi thôi, nhưng nhìn thoáng qua thì thấy có những bài bắt chước nhạc Đại Hàn và nhạc Đài loan. Xu hướng quay về với nhạc dân tộc thì lại theo chiều hướng giữ y nguyên như cũ và cũng thiếu sáng tạo.

9. Phản ứng của người ngọai quốc về nền âm nhạc Việt nam.
Người ngoại quốc đến Việt nam, phần nhiều là vì mục đích sưu tập, bảo tàng các loại hình âm nhạc cổ truyền nhiều hơn, bởi vì âm nhạc Việt nam của mình còn thô thiển và thấp lắm về đủ mọi phương diện. Nếu mà so với Nhật bản hay Trung hoa thì họ hơn mình rất nhiều. Lý do giản dị là vì dân họ đông, tổ chức của họ giỏi. Còn mình, thì nhạc sĩ trong Nam ngoài Bắc chia rẽ nhau.

10. Ảnh hưởng của xu hướng nhạc hiện đại của Tây phương đến Việt nam như thế nào?
Tôi có biết có người đi vào nhạc Jazz, nhưng mượn một cái áo người khác khoác vào mình, thì theo tôi khó lắm. Riêng tôi sau khi đi du học Pháp về, thì tôi thấy mình không thể mượn cái áo của Schubert hay của Beethoven, mà mình phải có cái của mình, thành ra tôi có "Minh Hoạ Kiều."

11. Điều gì là quan trọng nhất trong việc sáng tạo nghệ thuật?
Phản ánh xã hội, và quan trọng nhất là thành thật với mình, thành thật với người, và thành thật với đời. Nghệ sĩ mà giả tạo thì vứt đi.

12. Nghĩ gì về khu Bolsa Little Saigon?
Phải gọi khu Bolsa là khu Bon Chen. Đời sống vật chất lôi kéo con người trở nên tha hóa, "tất cả cho sự sống." Nhiều người không có đời sống tinh thần, thiếu lý tưởng.

13. Tại sao bác không viết về cộng đồng Little Saigon?
Cộng đồng ở đây không nuôi được nghệ sĩ. Không đài phát thanh nào trả tiền cho nghệ sĩ. Có tờ báo nào chú trọng đến chúng tôi đâu. Thành ra làm sao không có cuộc ly dị đó được, mặc dầu không phải lỗi tại ai.

14. Sinh hoạt cá nhân của bác như thế nào ?
Tôi hoàn toàn sống bằng âm nhạc từ xưa đến giờ. Ở ngoài này, thì may mà tôi còn sáng tác nhiều và đi hát, đồng thời bán đĩa nhạc để sống, nhưng mà phải làm như vậy thì nhục lắm.

15. Bác thích những sáng tác nào nhất trong sự nghiệp âm nhạc của mình?
Cái nào tôi cũng thích cả, kể cả các bài nhục tình ca hay tục ca. Thí dụ, tôi thích tục ca vì tôi dám nói trong khi không ai dám nói cả.

16. Bác muốn người ta nhớ về và nói về bác như thế nào?
Tôi đã buông bút, treo đàn, chùi mặt, tắt đèn, rời sân khấu, từ nay trở về sau, tôi không còn đứng ở giữa chợ đời nhận ai khen hay chê nữa. Bây giờ tôi vui một mình tôi đi thôi.

17. Nhắn nhủ gì đối với mọi người?
Tôi chỉ có một lời cám ơn đối với những người yêu nhạc Phạm Duy, vì đó là lý do làm cho tôi sống.

18. Muốn nói gì với thế hệ trẻ ở đây?
Các cậu may, mà không may. May là có một đời sống thoải mái hơn, không may là cuống rốn đã bị cắt lìa. Muốn nối lại, thì các cậu phải tự tìm lấy thôi, sẽ không ai giúp được.

* * *

Như một hậu chấn của tất cả mọi cuộc ly dị, chúng tôi ra khỏi nhà Phạm Duy, không tránh khỏi tâm trạng băn khoăn lý giải những nguyên nhân. Có lẽ Phạm Duy đúng -- không phải lỗi ai, nhưng quả là có một sự cách xa. Có lẽ chúng ta ở hải ngoại không còn là chúng ta khi ở Việt nam. Chúng tôi là những người "may mà không may" như lời của Phạm Duy. Hành trang của Phạm Duy để lại cho chúng tôi quan trọng hơn cả âm nhạc, có thể là tinh thần sáng tạo, sự thành thật, can đảm và tận tình với đời sống.


Tạp Chí VĂN cho ấn hành một số đặc bịêt về tôi. Đây là lần thứ ba hay thứ tư mà bạn bè dành cho tôi một sự quan tâm đáng quý qua những số báo đặc biệt về Phạm Duy. Có rất nhiều bài của rất nhiều những cây bút có giá trị như Nguyễn Xuân Hoàng, Hoàng Khởi Phong, Phố Tịnh (Đoàn Xuân Kiên), Đặng Tiến, Nguyễn Ngọc Bích, Thụy Khuê, Bùi Bảo Trúc, Linh Mục Trần Cao Tường, Hoàng Xuân Sơn, Phạm Quang Tuấn, Nguyên Sa, Quỳnh Giao, Phạm Xuân Đài, Phạm Phú Lợi, Văn Quang, Hồ Trường An, Ngọc, Đăng Khánh, Tiểu Quyên, Hoàng Chính, Nguyễn Hòang Linh... mà tôi chỉ có thể trích ra ở đây một số bài mà thôi.
Tạp Chí VĂN


Tranh của họa sĩ Etcetera đăng trong VĂN 66

Trong số báo này, có những bài viết về tôi từ trước nay được in lại, có những bài mới viết với những cái nhìn mới về tôi... Trước hết là của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng :

Phạm Duy Và Vết Thương Di Tản

Như những người cùng lứa tuổi, tôi ưa thích nhạc Phạm Duy, trước khi yêu thích nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi nghĩ, trước khi nổi tiếng với những ca khúc của chính mình, Sơn cũng là một người yêu nhạc Phạm Duy. Thế hệ của anh tôi, theo kháng chiến chống Pháp, chắc chắn là thế hệ của những người chọn con đường ra chiến khu một phần cũng vì âm nhạc của ông. Nhưng tôi có thêm một lý do để nhớ đến ông nhiều hơn các bạn tôi một chút vì cho đến năm 1972 -- không nhớ chắc là năm 72 hay 70, cái năm mà nhà văn Ngô Thế Vinh cũng ra hầu tòa vì một bài báo của anh -- tôi bị phiền phức do một ca khúc của ông: Bài Bà Mẹ Gio Linh.

Phạm Duy viết Bà Mẹ Gio Linh năm 1948. Năm 1972, sau khi Trần Phong Giao thôi tờ Văn, ông Nguyễn Đình Vượng nhờ tôi làm Tổng Thư Ký tòa soạn ở 38 Phạm Ngũ Lão. Lúc đó tạp chí Vấn Đề của kịch tác gia-giáo sư Vũ Khắc Khoan đặt trên lầu cùng địa chỉ với tờ Văn. Ông Thần Tháp Rùa khi đến tòa soạn bao giờ cũng đi ngang qua chỗ ngồi của tôi. Một lần ông hỏi tôi cho Vấn Đề một truyện. Tôi hứa. Và lần nào đi ngang qua bàn viết của tôi, ông cũng nhắc: Sao? Có truyện cho số này không? Tôi xấu hổ vì không viết được. Sau cùng, tôi cũng viết xong và "nộp bài" cho ông. Truyện ngắn Cha và Anh tôi đưa ông để đăng trên Vấn Đề -- tôi nhớ hình như là số 52.

Một buổi chiều Mai Thảo đến tòa soạn kéo ghế ngồi trước mặt tôi hỏi "Này, cậu viết cái gì cho Vấn Đề mà báo bị tịch thu, đóng cửa vậy?" Tôi ngớ người.

Truyện ngắn Cha Và Anh là một hồi tưởng với nhiều hư cấu về một gia đình (tôi) bị chia cắt trong chiến tranh, và chia cắt ngay cả trong một thành phố. Một nhân vật bơ vơ mất hướng, không biết mình đi đâu, về đâu. Truyện còn chép một số đoạn trong ca khúc của Phạm Duy :
Mẹ già cuốc đất trồng khoai
Nuôi con đánh giặc đêm ngày
Cho dù áo rách sờn vai
Cơm ăn bát vơi bát đầy...
. . . . .
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên con báo thù phen này
Mẹ mừng con giết nhiều Tây
Ra công xới vun cày cấy.
. . . . . .
Ông Khoan gặp tôi một tuần sau không vui. Tuy vậy, ông cũng tỏ vẻ lo cho tôi. "Anh có sao không? Có bị gì không?" Thưa anh, tất nhiên là có. Em phải hầu tòa đây. Đó cũng là thời gian mà Ngô Thế Vinh cũng từ Biệt Đoàn 81 Biệt kích Dù về hầu tòa vì bài báo Mặt Trận Ở Sài Gòn của anh.

Nhưng tôi đâu chỉ dính với ông Phạm Duy chỉ chừng đó thứ. Những ca khúc sau này của ông, những bài Bình Ca (Dường Như Là Hòa Bình, Sống Sót Trở Về, Ngày Sẽ Tới...) cũng làm tôi ray rứt mãi.

Tôi ngạc nhiên về những bài Tục Ca, Vỉa Hè Ca ... cùng đi với Đạo Ca, Bé Ca, Nữ Ca của ông. Ông Phạm Duy đa tài, đa dạng và là một người giàu có về âm thanh. Ông mơ mộng hơn những người lãng mạn nhất, nhưng ông cũng là người thông tục hơn những người thông tục nhất. Ông có nhiều tiếng nói cho nhiều hoàn cảnh.

Ông là một trong số ít nhạc sĩ "sống" và "mạnh" không phải là thứ nghệ sĩ ẻo lả của bàn đèn và khói thuốc. Nhạc của ông được nhiều thế hệ hát và hát khắp nơi. Nhạc ông được nhiều người nhớ và nhớ bằng những kỷ niệm đặc biệt. Nhạc ông được hát với một trái tim sôi nổi, nhưng cũng được hát với một nỗi buồn cùng cực. Nhạc ông có nước mắt. Và cũng được hát với một nụ cười.

Thế gian có những thứ tình cảm nào, ông đều cho người ta cơ hội bày tỏ thứ tình cảm đó.

Nhưng tôi biết không phải ai cũng bằng lòng ông. Có người nhìn ông như một tài năng hư hỏng. Có người bảo sau những ca khúc phổ thơ từ Huy Cận, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, ông không còn để lại gì cho âm nhạc Việt Nam. Tôi ngờ những người ấy sống bằng thành kiến. Không người Việt Nam nào có thể quên ơn Phạm Duy.

Để soi sáng giá trị và ý nghĩa. của một tác phẩm nghệ thuật - một cuốn tiểu thuyết, một bức tranh, một nhạc phẩm - người ta thường qui chiếu về tác giả, về đời tư của người nghệ sĩ . Người ta vẫn thường nghĩ giữa tác phẩm và tác giả chắc chắn phải có một mối giây nhân quả. Tác phẩm là sản phẩm của nghệ sĩ, nó tất yếu phải mang dấu ấn, hơi thở, đời sống, ý nghĩ của người sáng tạo.

Người ta đọc Kiều của Nguyễn Du và người ta đi tìm tiểu sử của ông để hiểu Kiều. Cũng vậy, người ta xem kịch Lưu Quang Vũ, xem tranh Nguyễn Trung, nghe nhạc Trịnh Công Sơn, người ta luôn luôn đi tìm tác giả. Người ta tìm đọc "những bản thảo dở dang, những thư từ, những nhật ký, hồi ký" và qua đó họ vẽ lại chân dung người nghệ sĩ. Chính chân dung ấy đã "soi sáng" tác phẩm của họ. Tôi chia xẻ "một nửa" ý kiến đó.

Tôi không tin là cuộc đời của một nghệ sĩ hoàn toàn làm thành tác phẩm của họ. Tôi không tin là tác phẩm đang được quần chúng yêu mến kia sẽ kém đi vì tác giả có một cuộc sống xã hội "không tốt đẹp" theo ý kiến của những nhà đạo đức. Tôi không tin giá trị tác phẩm sẽ bị tụt xuống khi tác giả có một cuộc sống không cân bằng với tiêu chuẩn xã hội. Những điều "tôi không tin" ấy thật ra chưa đủ lý lẽ để thuyết phục người khác. Cho đến khi tôi đọc được mấy cuốn sách của Milan Kundera, một nhà văn Pháp gốc Czech.* Dưới tựa đề Soixante-treize mots (Bảy mươi ba từ), phần thứ sáu của cuốn Nghệ Thuật Tiểu Thuyết, Milan Kundera viết : "L'artiste doit faire croire à la postérité qu'il n'a pas vécu", dit Flaubert.**

Vẫn theo Kundera, Maupassant không cho đưa chân dung của mình vào một loạt chân dung các nhà văn nổi tiếng: "Đời tư của một người và khuôn mặt anh ta không phải là của công chúng." Heman Broch nói về mình, về Musil, về Kafka: "Cả ba chúng tôi đều không có tiểu sử thật."

Nhà văn William Faulkner muốn làm "người bị triệt tiêu, bị xóa bỏ khỏi lịch sử, không để lại bất cứ dấu vết gì, không có cái gì khác ngoài những cuốn sách đã in." Và Kundera nhấn mạnh: Sách và để in,tức là không có các bản thảo dở dang, thư từ, nhật ký.)

Tôi muốn bắt chước Kundera nói theo một ẩn dụ của Kafka rằng nhạc sĩ Phạm Duy (nhà tiểu thuyết) phá ngôi nhà của mình đi, để lấy gạch xây một ngôi nhà khác: các ca khúc của ông (cuốn tiểu thuyết).

Từ đó đi đến kết luận là những người viết tiểu sử về một nghệ sĩ (nhà tiểu thuyết, họa sĩ, kịch tác gia, nhạc sĩ, điêu khắc gia...) là người phá dỡ những gì mà nghệ sĩ đó đã làm, để làm lại cái mà người nghệ sĩ đã phá dỡ ra. Cái công việc chõ vào đời tư của một nghệ sĩ (tài năng) là một công việc tiêu cực, thuần túy tiêu cực, nó không thể soi sáng cả giá trị lẫn ý nghĩa của tác phẩm; "may ra thì chỉ nhận dạng được vài viên gạch."*** Kundera không chỉ nói một lần về vấn đề này trong cuốn L'art du Roman, mà ông nói nhiều lần. Trong phần thứ bảy cuốn sách này, dưới tựa đề Discours de Jerusalem : Le Roman et L'Europe. "Nhà tiểu thuyết là người, theo Flaubert, muốn biến mình đi sau tác phẩm của mình. Biến mình đi sau tác phẩm của mình, điều đó có nghĩa là từ chối vai trò nhân vật xã hội."**** Phạm Duy là một con người, như mọi người. Ông đã sống tận cùng đời sống của ông, ông đã hiến tận cùng những gì ông có trong trái tim ông và thân xác ông. Tôi đồng ý với Hoàng Khởi Phong, Phạm Duy không cần vinh danh, vì cái danh ấy ông đã có, người ta nên biết ơn ông.

Trong cuộc sống của mỗi chúng ta, rõ ràng là chúng ta nợ nần quá nhiều người. Không chỉ nợ nần công ơn sinh và dưỡng của cha mẹ ta, mà ta còn nợ nần những người làm cho cuộc sống ta tốt đẹp hơn, có ý nghĩa hơn. Ngay khi họ làm ta đau đớn vì bản chất của họ, ta cũng nợ họ, vì nhờ đó ta khám phá ra sự đa dạng của con người, khám phá ra cái bộ mặt đen tối của một con thú tưởng là người, và ta cũng khám phá ra sức chịu đựng của mỗi chúng ta.

Phạm Duy Và Stravinski

Chưa thấy nhà văn nào nói về âm nhạc say mê và đầy kiến thức như Milan Kundera. Trong cuốn Những Di Chúc Bị Phản Bội, ông dành nguyên phần thứ ba Improvisation en hommage à Stravinski (Ứng tác kính tặng Stravinski) từ trang 69 đến 119 để viết về Stravinski.

Tôi ước gì mình có đủ kiến thức về âm nhạc để viết một chương về nhạc sĩ Phạm Duy. Nếu cuộc đời của Stravinski chia làm ba phần dài gần bằng nhau. [ở Nga, 27 năm; Pháp và Thụy Sĩ nói tiêng Pháp, 29 năm; Mỹ, 32 năm] thì Phạm Duy cũng chia phần đời mình qua những con số tương tự: Miền Bắc 29 năm, vào Nam 25 năm, và ở Mỹ nay ông đã ở được 27 năm.[bài này viết năm 2002]

Kundera viết "Di tản: một cuộc lưu lạc bắt buộc ở nước ngoài đối với người coi đất nước nơi mình sinh ra là tổ quốc duy nhất của mình. Nhưng tình trạng di tản kéo dài và một sự trung thành mới đang nảy sinh, sự trung thành với đất nước mình đã nhận; bấy giờ là đến lúc cắt đứt. Stravinski dần dần từ bỏ chủ đề Nga. Năm 1922 ông còn viết Mavra (hí kịch phỏng theo Pouchkine), rồi năm 1928, Nụ Hôn Của Bà Tiên, kỷ niệm về Tchaikovski, rồi ngoài mấy tác phẩm ngoại lệ không đáng kể, ông không trở lại chủ đề Nga nữa. Khi ông mất năm 1971, Vera vợ ông, tuân theo ý nguyện của ông, từ chối đề nghị của chính phủ Xô Viết chôn ông ở nước Nga và chuyển thi hài ông đến nghĩa trang Venise."

Kundera viết tiếp: "Không còn nghi ngờ gì nữa, Stravinski mang trong mình vết thương của sự di tản, như tất cả những người khác; không còn nghi ngờ gì nữa, sự phát triển nghệ thuật của ông sẽ đi một con đường khác nếu ông có thể ở lại nơi ông đã sinh ra.

Phần đầu của Stravinski và Phạm Duy có vẻ như trùng hợp nhau. Sự khác là ở phần cuối. Chủ đề trong âm nhạc Phạm Duy luôn luôn là Việt Nam.

"Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời."

Chủ đề ấy ở cuối đường là Minh Họa Kiều I và II. Việt Nam nhất trong những gì thuộc về Việt Nam.

Tôi viết những dòng chữ này như một lời biết ơn Phạm Duy. Tôi không có nhiều lý lẽ để nói về âm nhạc ông. Tôi mượn nhiều lời của Milan Kundera để cám ơn ông.

Xin ông khỏe mãi.

-----------------------------------------
* L' art Du Roman, Collection Folio, 15 Novembre, 1999 và Les Testaments Trahis, Collection Folio, 18 Janvier, 2002. Bản dịch của Nguyên Ngọc, NX Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001.
** Sách đã dẫn, trang 177. Flaubert nói: "Người nghệ sĩ phải làm cho hậu thế tưởng rằng anh ta không hề sống."
*** Bản dịch của Nguyên Ngọc, sđd., tr. 156-157.
**** Bản dịch Nguyên Ngọc, Sđd., tr. 165


Theo Chân Phạm Duy Một Đọan Đường

Phạm Xuân Đài

Trong chuyến đi Mỹ mùa hè năm 1970, tôi có tặng cho các bạn quốc tế một số cuốn Dân Ca-Folk Songs của Phạm Duy, trong đó các lời ca được dịch sang tiếng Anh. Mấy hôm sau một cô bạn Thụy Điển nói với tôi: "Lời các bản nhạc trong cuốn sách hay quá!" Tôi không ngạc nhiên vì lời khen ấy, vì tôi đã biết lời trong đó rất hay, tôi chỉ mừng có người chịu khó đọc và hiểu được cái hay đó.

Tôi nhớ cô bạn đã chỉ tôi coi bài Xuân Ca
Xuân trong tôi đã khơi trong một đêm vui
Một đêm một đêm gối chăn phòng the đón cha mẹ về
Xuân âm u lắt leo trong nguồn suối mơ
Bừng reo rồi theo nắng lên từ cha chói chan lòng mẹ

Rồi nói với tôi: "Tôi chưa thấy ai nói về mùa xuân của đời mình như thế này. Mùa xuân bắt đầu từ khi mầm sống đầu tiên của tôi được tạo nên, được tả trong động tác ái tình của cha và mẹ. Thật tuyệt vời."

Thú thật lúc bấy giờ tôi ngỡ ngàng. Tôi đã hát Xuân Ca nhiều lần, và không lưu ý để hiểu hết ý nghĩa của ngay đoạn mở đầu như cô gái Thụy Điển đã nhìn thấy trong bản dịch tiếng Anh. Thường bài hát nào cũng thế, thoạt tiên người ta rung cảm vì âm hưởng của lời lẽ ngân lên hơn là chính ý nghĩa của lời lẽ đó, nhất là loại ý nghĩa thâm trầm. Nhưng sau khi nói chuyện với cô bạn, tôi bỗng "ngộ" toàn bộ nội dung mấy câu trên, và có cảm giác như mình ý thức được tình trạng của mình từ khi mới chỉ là một tế bào, một con tinh trùng giữa cõi âm u của "nguồn suối mơ" trong cha tôi, để vào đêm gối chăn phòng the đầu tiên ấy, theo cơn "nắng lên từ cha" mà được phóng vào làm chói chan lòng mẹ. Đó mới là nguồn cội của cái gọi là xuân của một đời người. Ca tụng mùa xuân thì phải bắt đầu từ tình trạng ấy, chỗ thâm sâu, chỗ uyên nguyên của tất cả những biểu hiện về sau mà người ta vẫn ca tụng về mùa xuân.

Sự nghiệp sáng tác của Phạm Duy rất phong phú, như một trái núi quá lớn, muốn leo lên thoạt tiên không biết bắt đầu từ đâu. Nhưng nếu muốn tìm một chủ đề chính của toàn bộ tác phẩm của ông thì lại không khó, vì nó nổi bật lên như một ngọn tháp giữa một khu rừng cây, đó là chủ đề về dân tộc và đất nước. Có thể đề tài tình yêu cũng rất giàu có và quan trọng, và lại được biết đến nhiều qua trình diễn, nhưng dân tộc và đất nước luôn luôn là cảm hứng căn bản, chủ đạo trong sáng tác của ông, và trải dài suốt đời ông. Thử đi cùng ông một đoạn ngắn thôi, đoạn mở đầu, từ 1945 đến 1951.

Không phải chủ đề về quê hương dân tộc chỉ mới bắt đầu từ 1953 với bài Tình Ca, mà sớm hơn nhiều, từ những ngày vận nước biến chuyển từ giữa thập niên 40 để chuẩn bị vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài Tình Ca chỉ là một sắp xếp rất lý trí những nội dung chính yếu của tình yêu đất nước và dân tộc; tôi yêu tiếng nước tôi vì những lý do này, tôi yêu biết bao người vì các yếu tố kia... dù cách trình bày rất là nên thơ thì bài hát vẫn nặng tính cách tuyên ngôn, giảng giải. Tình yêu thật sự không biểu lộ khi người ta nói "tôi yêu" mà ở trăm ngàn cách thế khác, đi thẳng vào từng hơi thở, từng nhịp đập của mạch máu người nghe, chứ không phải qua cái đầu. Tình yêu ấy bừng nở nơi chàng thanh niên Phạm Duy năm 1945 khi Việt Nam đương ở ngưỡng cửa của độc lập mà phải đối đầu ngay với ý đồ trở lại của thực dân Pháp, chàng thét lên trong cái thế nhất hô bá ứng của dân tộc vào thời điểm ấy: Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến! Chàng sống đúng trạng thái tinh thần của cả nước Việt Nam lúc đó, và ghi lại trung thực hào khí của khoảnh khắc lịch sử ấy trong khúc Xuất Quân, rồi chính khúc xuất quân đó đã ảnh hưởng ngược lại hâm nóng biết bao bầu máu người trẻ lẫn người già từ Nam ra Bắc. Bây giờ nhìn lại thời điểm chớm mở màn cuộc kháng chiến chống Pháp thì chỉ thấy duy nhất có bài Xuất Quân là tiếng kèn xung trận dõng dạc và thôi thúc nhất vang lên trong cả nước, đi trước, đi trên và đi thẳng vào lòng người hơn tất cả mọi hiệu triệu chính trị của thời ấy.

Tình yêu nước nơi Phạm Duy được khơi dậy bởi tình cảm chống ngoại xâm. Đó là tình cảm chung của mọi người Việt Nam khi vừa thoát được ách nô lệ mà thấy nguy cơ lại sắp bị xâm chiếm lần nữa, và từ khởi điểm ấy, mỗi người thể hiện tình yêu nước mỗi cách, nông sâu dài ngắn hoặc biến thể ra rất khác nhau. Riêng với Phạm Duy, xuất quân đánh Pháp chỉ là điểm khởi đầu của một hành trình vĩ đại về sau để đi sâu, đi dài vào dân tộc và đất nước Việt Nam. Giữa thời đại mà tình yêu nước bị lợi dụng và áp đặt bởi những loại quái thai xa lạ, chính các tác phẩm của Phạm Duy sẽ có nhiệm vụ cứu chuộc niềm tin và tình tự chính thống của con người Việt Nam, giữ vững một nối kết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.

Vừa rung xong tiếng kèn xuất quân, cũng trong năm 1945 ấy Phạm Duy lại viết Chiến Sĩ Vô Danh. Tuy cùng bắt nguồn từ tình yêu nước, hai mặt của hai bài hát rất tương phản nhau, cho ta thấy rằng ngay từ điểm xuất phát, Phạm Duy đã nhìn ra, ngay cả trong không khí hừng hực của một dân tộc vùng lên, những sầu hận đời lấp tancủa biết bao số phận sẽ phải chịu khi lao vào cuộc này. Chết chóc sẽ trùng điệp, nhưng vô danh, không ai biết đến. Vừa tấu lên điệu kèn ra quân hùng tráng, Phạm Duy đã cảm ngay thấy cái oan khuất mênh mông của hy sinh và tàn phá sẽ đến:
Gươm anh linh đã bao lần vấy máu
Còn xác xây thành, thời gian luống vô tình
Rừng trầm phai sắc
Trống điểm tàn canh
Hỡi người chiến sĩ vô danh!


Ông biết thời gian (cũng tức là lòng người) sẽ rất vô tình với "vạn cốt khô" sẽ phơi đầy đồng trong cuộc thư hùng (sắp đến) cho sự sống còn của dân tộc, và ông nhắc nhở trước, ông lên tiếng đọc văn tế trước những oan khiên rồi sẽ chỉ còn biết về hú với gió. Hồn của ông không phải là hồn riêng lẻ của một cá nhân, nó phải là một phần hay nằm giữa cái đại ngã của một dân tộc mới có khả năng yêu thương và tiên cảm số phận của dân tộc ấy đến thế.

Khi cuộc toàn quốc kháng chiến bắt đầu, theo tôi bài quan trọng nhất của ông là bài Đường Về Quê. Nếu Xuất Quân là tiếng kèn báo hiệu thời điểm vùng dậy đánh quân thù thì Đường Về Quê là bản lộ trình của cuộc kháng chiến. Từ xưa, nước ta là nước nông nghiệp, nông thôn là căn bản của cuộc sống kinh tế và đạo lý. Năm 1946, cuộc chiến nổ ra ở thành thị, và cũng như bao lần đã xảy ra trong lịch sử, muốn lãnh đạo cuộc kháng chiến thì phải bỏ thành thị đi về vùng thôn quê và rừng núi. Bước đường về quê của người thành thị là bước đường muôn thủa của các trận chiến giữ nước của Việt Nam, đoàn người về quê cuối năm 1946 như dẫm vào con đường cũ mà bao triều đại trước đã đi, với tâm trạng vừa bở ngỡ vừa say sưa để làm lại cái sứ mạng lâu dài và gian nan. Bài hành khúc đơn sơ Đường Về Quê vào thời điểm đó đóng vai trò như một đại cáo, một mặt ẩn dụ về con đường đi của dân tộc, một đoàn người đi miên man trên đường gian nan, luôn luôn phải lấy nông thôn làm gốc; mặt khác là bức tranh tả thực đoàn người vừa phá hết phố phường biệt ly đời gấm hoa ra đi để thực hiện lý tưởng của mình đối với đất nước. Khác với thành thị của họ, đồng ruộng trong sạch quá, thơm tho quá. Bỏ lại sau lưng đời sống ngựa xe giày dép áo quần của thành thị, họ đang dấn mình vào thôn quê -- cũng là vào quê hương đích thực -- với cả một tâm trạng ngỡ ngàng mới mẻ
Kìa đoàn người đi say sưa qua đồng mênh mông
Người bàng hoàng đưa câu ca theo nhịp chân không

Rồi người sẽ hết bàng hoàng, rồi chân không giày dép sẽ trở nên chai cứng, rồi người sẽ hóa thân nhập vào cảnh nương chiều lúc chiều về rợp những nương khoai, trâu bò về giục mõ xa xôi hoặc sẽ không xa lạ nữa với cảnh bóng người thấp thoáng cuối đường thanh vắng, bước đều mà quang gánh nặng vai. Người thành thị sẽ trưởng thành với nếp sống nông thôn theo với cuộc kháng chiến trưởng thành, nhưng tất cả phải được mở đầu với Đường Về Quê.

Từ đó, Phạm Duy tiếp tục con đường về quê, đi sâu, đi cao vào nhiều ngõ khác nhau. Nhưng với phương tiện nào? Dĩ nhiên bằng tân nhạc, nhưng ông đã dựa vào những truyền thống về nhạc điệu, tiết điệu, lời ca của dân ca cổ, căn bản là dùng hệ thống âm giai ngũ cung nhưng phát triển cho phong phú hơn. Chưa kể tác động của lời hát rất tài tình của ông, chỉ riêng nhạc điệu đã cho người ta cảm giác gần gũi ấm áp như làm vang động lại nhiều âm hưởng vẫn nằm sâu tự đời não đời nào trong tâm thức người Việt Nam. Và như thế, ông gửi cho chúng ta tâm tình về người thương binh, về mùa đông chiến sĩ, về nỗi nhớ người ra đi của bà mẹ, của người vợ, người con, về chiến thắng sông Lô, về cảnh nương chiều, hay cả khi đi về miền Trung... tất cả như một dòng chảy đậm đà dịu ngọt thấm vào lòng người nghe, người hát. Tân nhạc dựa trên căn bản dân ca là một nhãn hiệu trình tòa của nhạc Phạm Duy ngay giai đoạn đầu kháng chiến, làm thành bản sắc của ông suốt thời gian này và mãi mãi về sau. Trong một bài viết của mình trên báo trong nước trong thời kỳ đổi mới (từ cuối thập niên 80), nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý (tác giả Dư Âm) đã hết lời ca ngợi Phạm Duy về cách ứng dụng dân ca vào tân nhạc này và nói rằng thời đầu kháng chiến ấy ông đã học hỏi phương cách này rất nhiều. Phạm Duy nhìn cuộc kháng chiến một cách toàn diện, không chỉ nhấn mạnh khía cạnh chiến đấu. Mà hình như ông không để tâm nhiều về những chiến công, về tinh thần bắn giết. Ông thường nghiêng về những số phận trong cuộc chiến, như người thương binh, bà mẹ có con bị giặc giết, hay là cảnh hoang tàn không bóng trâu cày trên đồng, vắng tiếng heo gà trên sân, hoặc tinh tế hơn khi quan sát làng mạc vùng bị Tây chiếm:
Nửa đêm thanh vắng không một bóng trai
Có tiếng o nghèo thở dài
Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi.

Và cả cái chết, thường được ông nhắc đến một cách bi ai và hùng tráng:
Người đi không về chắc rằng có người nhớ
Sương khói chiêu hồn hiu hắt những chiều trận vong.

Dân tộc và đất nước đối với ông không còn là những khái niệm trừu tượng, viết về cuộc chiến không phải là hô những khẩu hiệu "tiến công" chung chung, mà là những mảng đời cụ thể, có thể đau thương, có thể hùng tráng và nhiều khi cũng rất là thơ mộng. Không nhạc sĩ nào trong cuộc kháng chiến Pháp đã ghi lại nhiều bức tranh cực tả từng nỗi niềm trong lòng đời sống thời đó như ông. Điều đó chắc là không làm vừa lòng đảng cộng sản lãnh đạo cuộc kháng chiến đang dần dần thu về một mối tất cả sinh hoạt văn nghệ cho phù hợp với "tính đảng," không muốn có những sáng tác linh tinh ngoài đường lối, nhưng các sáng tác của ông lại là một may mắn cho dân tộc Việt Nam vì nhờ Phạm Duy mà đã có những tiếng hát nói lên được một cách vừa thâm sâu vừa thăng hoa niềm tự hào, sự đau thương, tính bền bỉ gan dạ và lòng yêu nước của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử toàn dân vươn mình chấm dứt chế độ thực dân trên đất nước.

Khi các bài học đầu tiên của cộng sản Trung Quốc được đem ứng dụng tại Việt Nam thì nhiều người bỏ hàng ngũ kháng chiến để về thành phố. Họ thấy không liên quan gì giữa việc tranh đấu giành tự do độc lập cho đất nước với việc đấu tố địa chủ, bóp nghẹt tự do tư tưởng, thờ phượng một chủ nghĩa ngoại lai xa vời. Nhiều người đã thấy trước đó sẽ là mối họa. Như bao nhiêu người thời đó, Phạm Duy đi tìm một môi trường nhân bản hơn, ở đó ông có thể tiếp tục phát triển cái tình cảm thắm thiết của ông đối với đất nước cũng như bao tình cảm khác thuộc về con người. Và quả thế, so với những nhạc sĩ cùng lứa với ông vẫn ở lại với cộng sản, con đường khai phá của ông đã đi quá xa và quá cao, ông đã xây đắp nên cả một lâu đài huyền hoặc trong sáng tác, trong khi những người kia, cụ thể như Văn Cao bạn ông, một nhạc sĩ tài năng của Việt Nam mà chỉ bừng lên một số tác phẩm thời kỳ đầu kháng chiến, rồi sau đó khô cạn, hiu hắt, tắt hơi.

Về thành từ năm 1951, ông đóng lại một giai đoạn sáng tác và mở ra một giai đoạn mới: trước đây trong cuộc chiến ông đã nói lên vinh quang và khổ đau của dân tộc, bây giờ ông đi vào tình tự quê hương. Nhưng dù là giai đoạn nào, chất liệu cơ bản bất biến của ông vẫn là tình yêu dân tộc và đất nước.Tình Hoài Hương, Tình Ca, rồi trường ca Con Đường Cái Quan, trường ca Mẹ Việt Nam và vô số các bản nhạc khác của ông đã đưa "tình tự dân tộc" thành một vùng lớn rộng như biển, cao như núi và sâu thăm thẳm như mấy ngàn năm lịch sử của đất nước Việt Nam. Leo vừa hết một ngọn núi lại thấy hiện ra một đỉnh khác, thôi xin hẹn để qua cơn choáng ngợp sẽ lại tìm đường lần hồi đi thám hiểm nữa. Chỉ mong gối chưa chồn, như Phạm Duy đã hát ngày xưa: đường mịt mùng, bàn chân còn rong ruổi ruổi rong...


Yêu Việt Nam
Qua Nhạc Phạm Duy

Tiểu Quyên

... Những người Việt Nam sinh ra hoặc lớn lên trong chiến tranh Nam Bắc thế kỷ 20, nhất là những người sống trong miền Nam vĩ tuyến 17, có thể nói đã nhờ nhạc Phạm Duy mà biết yêu thương giống nòi và đất nước Việt Nam nhiều hơn…. " Tôi tin rằng sau đây nhiều thế kỷ, các sử gia người Việt khi ghi lại các sinh hoạt văn hóa của tiền nhân, thế nào cũng viết những câu đại để như trên trong đoạn nhắc tới nhạc sĩ Phạm Duy.

Sau đây vài ba trăm năm, cháu chắt, chút chít của chúng ta khi nhắc tới giai đoạn chiến tranh của hai miền Nam Bắc Việt Nam từ 1954 tới 1975, chắc chắn chúng sẽ không để ý gì tới những chiến trận tương tàn khốc liệt của tổ tiên, những tranh chấp Quốc-Cộng kéo dài mấy thập niên, mà họ sẽ có những cái nhìn và quan điểm bao quát, rộng rãi hơn chúng ta nhiều. Nhắc tới các sinh hoạt văn hóa của tiền nhân, nhiều phần chúng sẽ chú ý tới loại nhạc mang nặng tình tự quê hương của Phạm Duy,hơn là các bản tình ca đôi lứa của ông mà một thời đã được cả nước yêu chuộng. Tình cảm cá nhân thay đổi rất nhanh, nhưng các sinh hoạt văn hóa, những gì liên quan tới tình yêu quê hương, yêu đồng loại sẽ thay đổi chậm rãi hơn nhiều, dù rằng chuyện kinh tế ngày nay đang được "toàn cầu hóa" một cách mạnh mẽ. Vài chục thập niên nữa, biết đâu thế giới sẽ không còn phân chia thành các quốc gia riêng biệt nữa?

Tác giả của hai trường ca bất hủ Con Đường Cái QuanMẹ Việt Nam, nhạc sĩ Phạm Duy năm nay đã bát tuần, thường được coi là một biểu tượng rất lớn trong dòng nhạc Việt Nam từ nửa thế kỷ qua (thập niên 1940 tới 1990). Những khán thính giả đã hát và sống với nhạc Phạm Duy, hầu như ai cũng cảm nhận được lòng yêu quê hương dân tộc nồng nàn nơi con người nghệ sĩ đó. Nhiều thế hệ đã biết yêu Việt Nam, yêu nước,yêu người, phần lớn có thể nói là do nhạc ông nuôi dưỡng các loại tình cảm đó. Hơn hai mươi năm sống trên đất tạm dung, nhiều bè bạn thật tình thương cảm cho Phạm Duy, con người nghệ sĩ rất nặng tình với quê hương dân tộc. Khi Phạm Duy khi đi thăm núi non nào trên thế giới ông cũng thấy không đẹp vùng Cao Bắc Lạng. Sông ngòi nào cũng không có sóng bạo như sông Hồng, không mặn mòi như nước sông Cửu Long v.v... Nhìn vào cảnh thiên nhiên nào, trong lòng Phạm Duy cũng khởi lên những tình tự thương nước nhớ nhà.

Nhạc sĩ Của Quê Hương
và Dân Tộc Việt Nam

Quê hương và dân tộc VN trong tâm hồn Phạm Duy đã thể hiện ra trong hàng ngàn lời ca, hàng trăm khúc nhạc diễn tả dùm cho tâm tình và cảnh đời của bao thế hệ người Việt. Gần 6 thập niên qua, từ trước 1940 tới hết 1990, có thể nói ai cũng đã thưởng thức, thuộc lòng và thấm thía nhiều bài hát thuộc các thể điệu đa dạng, phong phú của ông.

Mùa Xuân năm 1947, ông anh tôi 17 tuổi, bỏ trường tòng quân đi kháng chiến chống Pháp, khi về thăm nhà đã dạy cho tôi bài hát đầu đời: Tuổi xanh như lúa mai, đời thanh niên sáng tươi của Phạm Duy. Anh sinh viên lục quân Trần Quốc Tuần bế em -- còn là một cô bé con, đặt cho đứng lên trên cái bàn cao, rồi cầm tay dạy đánh nhịp theo tiếng hát trong sáng của các đồng đội. Đoàn quân của anh tôi đa số là sinh viên Hànội, đã ngồi gần kín hết cái sân lớn trong khu nhà chúng tôi ở miền quê Sơn Tây, một đêm trăng rất sáng…Hình ảnh các anh bộ đội ấy và thanh âm bài hát đó không bao giờ phai mờ trong ký ức tôi.

Thời trước 1950, khi cùng đại gia đình chạy loạn ở vùng gần quê nội, mỗi lần theo các chị em cùng lứa ra chơi trên bãi cát ven sông thì trong tôi lại vang vọng những lời ca như Trên nước sông Lô, thuyền tôi buông lái như mơ. Những cánh đồng lúa văng vẳng tiếng hát Chiều về, chiều về trên cánh đồng xanh, những cô thôn nữ quang gánh kĩu kịt trên vai đang, nhịp nhàng như điệu hát gánh, gánh, gánh, gánh thóc về, những chú mục đồng lùa trâu bò về, dục mõ xa xôi hỡi chiều ...

Thập niên 1960, tôi tiếp tục được nhạc của Phạm Duy nuôi dưỡng, được đi theo nhạc sĩ thăm đất nước và lịch sử , biết yêu mến quê hương mình qua 17 ca khúc trong Con Đường Cái Quan : Tôi đi từ ải Nam Quan, qua vài ngàn năm lẻ... Tôi được thăm Đồng Đăng, nàng Tô thị, được ngắm nhà sàn đứng bên đường hoang nắng soi của miền Thượng Du Bắc việt. Tôi qua quê nghèo, ruộng nghèo. . . tôi theo cồn cát vượt đèo Hải Vân... Tôi thấy được cảnh công chúa Huyền Trân gạt lệ trên đường thiên lý: nước non ngàn dặm ra đi... khi nàng hy sinh lấy vua Chiêm để đổi lấy hai vùng đất đai, mở rộng bờ cõi. Rồi tôi lại được theo nhạc sĩ, cùng chàng lữ khách đi tới cuối Con Đường Cái Quan : Vào tới Xóm dừa, vào vườn chuối la đà, ôi là mát lòng ta... của miền Cửu Long bát ngát.

Thời đó, tuy chưa được thực sự cất bước du lịch thăm quê hương lần nào, nhưng với trường ca Con Đường Cái Quan, chúng tôi đã được ngắm và được nghe những tiếng nói thiệt thà, những mái tóc mặn mà ...đôi môi xinh hàm răng xít xa... của những người hiền lành như một giấc mơ trong miền Nam nước Việt, cũng như được ghi nhớ hình ảnh sinh hoạt của miền Bắc Việt xa xôi.

Lòng yêu mẹ, thương người của chúng tôi lại được tưới tẩm thêm bằng những lời ca đầy chất thơ của các ca khúc Núi Mẹ, Sông Mẹ, Biển Mẹ trong trường ca Mẹ Việt Nam của Phạm Duy. Thời gian đang hoàn tất trường ca này, nhạc sĩ Phạm Duy thường mang từng đoạn ngắn ra căn nhà số 4 đường Duy Tân (Saigon) trụ sở của Sinh Viên Saigon, để hát và tập cho các bạn trẻ hát chung. Có lẽ ông đã vô tình hun đúc nên những tấm lòng yêu nước nồng nhiệt và thương yêu dân tộc đậm đà của rất nhiều thanh niên thời đó, khi mà chiến cuộc chưa tới hồi tàn khốc. Những bản nhạc tình của ông có lẽ không được giới thanh niên ham hoạt động chiếu cố nhiều như hai trường ca bất hủ của ông.

Trong thập niên 1960, chiến tranh Quốc Cộng lan rộng, các gia đình đều ít nhất một lần khóc con em chết trận vì miền Nam bị Cộng Sản tìm cách xâm lăng… Năm 1964, một ngày tới viếng tang gia đình người bạn thân mới có ông anh chết trận, tôi vừa hát thầm, vừa khóc cho người me già đang khổ đau cùng cực vì mất con trai lớn, như Bà mẹ Gio Linh hồi nào cuốc đất trồng rau, nghe tin xóm làng kêu gào...

Thập niên 1970, khi chiến cuộc gây ra những tàn phá kinh hoàng và tâm trạng người dân tan nát vì chồng hay con bị chết trận, mà hậu phương thì không ổn định.... chúng tôi lại cùng Phạm Duy hát tâm ca:
Tôi sẽ hát to hơn súng nổ
Lời tôi thay cho tiếng đạn bay
Lời ca êm như giấc ngủ say
Để lại cho em một nước chia lìa
Nhưng em thương anh thương anh cho súng phải thở dài
Nhưng em thương anh thương anh cho lựu đạn im tiếng
Nhưng biết bao giờ, tôi mới được nói thẳng những điều tôi ước mơ

Mười Bài Đạo Ca do Phạm Duy phổ thơ của Phạm Thiên Thư cũng thể hiện những ý muốn thoát khổ của quần chúng:
Chắp tay lạy người cho xin nụ cười
Chắp tay lạy trời cho đám mưa rơi
. . . . . .
Muôn loài như sương rơi
Xin làm hoa trắng đỡ
. . . . . .

Lũ chúng tôi cũng khóc cùng nhạc sĩ khi nghe và hát những bài hát phản chiến như :
Em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời mai mốt anh về
Anh trở về có thể bằng chiến thắng Pleime
Anh trở về trên đôi nạng gỗ
Anh trở về bại tướng cụt chân
. . . . . .

Kể từ thời toàn dân kháng chiến chống Pháp ( 1945- 1948) tới lúc đất nước chia đôi (1954 - 1975) nhạc Phạm Duy gần gụi với người Việt như gạo cơm, như áo ấm. Di tản ra nước ngoài, ông tiếp tục sáng tác, biểu hiện tâm hồn của con người nghệ sĩ nhạy cảm đối với "đất tạm dung", trước những cảnh vượt biển hãi hùng, những chia lìa đau sót và tin tức toàn màu đen từ quê hương. Sau khi 4 người con trai lớn thoát được chế độ Cộng Sản, sang Hoa Kỳ đoàn tụ cùng gia đình, Phạm Duy lại có hứng khởi để viết tiếp và kết thúc tổ khúc Bầy Chim Bỏ Xứ (thập niên 1980), trường ca thứ ba sau hai trường ca Con Đường Cái QuanMẹ Việt Nam của thập niên 1960. Sau đó tới Trường ca Hàn Mặc Tử và ngày nay, ông đang hoàn tất Minh Họa Kiều

Cá Hồi Về Nguồn

Tình yêu quê hương và người dân Việt nơi Phạm Duy đã khiến cho nhạc sĩ quyết định trở về với nguồn cội của ông vào dịp đầu năm 2000, bất chấp những khó khăn của chính phủ Cộng Sản trong nước, và của những người Việt hải ngoại chống Cộng quá khích ngoài nước. Cái chết của người vợ hiền (danh ca Thái Hằng), nguồn cảm hứng của trường ca Mẹ Việt Nam -- đã khiến Phạm Duy suy nghĩ và tỉnh mộng -- giấc mộng dài của con người đóng kịch thành công trên sân khấu cuộc đời. Phạm Duy tâm tình cùng nhà báo: Những công trình của cả cuộc đời tôi đều chỉ như những chiếc áo hóa trang trên sân khấu.....Cuối cùng người vợ mà tôi yêu quí nhất, tôi cũng không giữ được, thì cuộc đời này còn có nghĩa lý gì ?....Sống chết lẽ vô thường, danh vọng như mây khói -- bỗng nhiên tôi ngộ ra…". Con người Chân Thật của nhạc sĩ lộ diện, và ông thấy niềm ao ước tối hậu, quan trọng hơn hết của ông ở tuổi bát thập này là có thể trở về sống những ngày tháng chót nơi quê hương. Trở về với những nụ cười bé thơ, với ánh mắt mẹ già và những đôi môi thôn nữ... Chắc chắn ông cũng muốn trở về với những "tình nhân" không quen biết, và với những ruộng đồng, sông núi đã làm nên con người Phạm Duy. Con người trẻ mãi trong ông chắc hẳn vẫn hy vọng sẽ có một (hay nhiều) nàng tiên ngồi đợi chàng bên bờ suối, để giống như loài cá hồng , Phạm Duy còn "sanh sản" thêm được vài chục ca khúc nữa để lại cho đời. Sự nghiệp âm nhạc đồ sộ của ông vẫn chưa được ông cho là đủ, vẫn còn muốn làm thêm, thêm mãi...

Như loài cá hồng (còn được gọi là cá hồi) về với ngọn nguồn người nhạc sĩ già nhất định trở về với con đường cái quan và những bà mẹ Việt nam. Phạm Duy muốn sống theo loài cá salmon. Đó là loài cá sống gần hết cuộc đời vùng vẫy ngoài biển lớn, nhưng tới cuối đời tự nhiên là chúng biết tìm đường, quay đầu bơi về với suối nguồn, đúng những nơi mà chúng đã được cá mẹ sanh ra từng chùm trứng nhỏ xíu. Sau khi trứng nở thành cá ít ngày thì lũ cá con rủ nhau xuôi dòng ra sông rồi ra biển. Và sau gần hai năm sống ngoài khơi, nếu không bị lọt vô lưới của ngư dân, loài cá hồng lại trở về nguồn để sanh đẻ và để chết. Đường về quê thì xa vạn dặm nên trên đường về nhiều lần chúng phải lội ngược thác, vượt bao trở ngại....chúng vẫn cố bơi về tới nguồn cũ rồi mới sanh sản và chết.

Ba Trăm Năm Nữa
Ai Khóc Phạm Duy?

Cũng như đại thi hào Nguyễn Du, có thể Phạm Duy cũng thắc mắc ba trăm năm sau, có còn ai thương tiếc tới mình. Sống trên dưới 80 năm trong thời kỳ có thể nói nhiều biến động nhất của lịch sử Việt Nam, nhạc sĩ Phạm Duy đã thể hiện được những khía cạnh chân thật nhất của con người nghê sĩ nhạy cảm. Ông hòa nhập, sống hết mình với kháng chiến chống Pháp của toàn dân (1945- 1949). rồi sau đó với trận chiến giữ gìn tự do của phía Quốc Gia (1954 - 1975), đưa ra bao hình ảnh hào hùng và đau thương, bi thảm của hai cuộc chiến tranh đó. Đồng thời Phạm Duy cũng nói lên bằng dòng nhạc phong phú, bao tâm trạng của lứa tuổi thanh niên, tuổi thơ trong sáng, từ tâm tình của người vợ trẻ, bà mẹ già… cho tới tâm trạng của giới thanh niên phản chiến, chán ghét chiến tranh, mơ ước hòa bình hồi đầu thập niên 1970. Cùng với các bản tình ca đôi lứa, các bài dân ca cải biên, những bản nhận thức ca, tâm ca, thiền ca….cho tới tục ca, sự nghiêp âm nhạc của Phạm Duy thật sự là một gia tài văn hóa đồ sộ chung cho tất cả chúng ta trong suốt các thời đại ông đã sống qua.

Mai sau mọi sự rồi sẽ đổi thay. Tình yêu đôi lứa hiện nay cũng đã khác thời xưa nhiều lắm. Nhưng con người của thời đại nào thì cũng vẫn có tình yêu mẹ, yêu quê hương, đất nước và giống nòi.... Một khi có đủ cơ duyên, nhạc Phạm Duy chắc sẽ lại được quần chúng Việt Nam hát dài dài.

Chỉ cần đặt câu hỏi Nếu trong nửa thế kỷ qua không có bản nhạc nào của Phạm Duy thì chúng ta sẽ biết mình thiếu thốn tới đâu ? Và con cháu chúng ta sẽ bị lệch lạc tới đâu, khi chúng chỉ có thể tìm được những bài hát sắt máu của miền Bắc trong thời chiến tranh 1954 - 1975, coi đó là những thể hiện duy nhất của tâm thức dân Việt Nam? Nói riêng về âm nhạc, khi có được một người nhạc sĩ như Phạm Duy trong tám chục năm qua, phải chăng chúng ta nên cảm ơn trời đất đã cho dân tộc chúng ta một tặng phẩm thật đáng quý, đáng trân trọng?


Lỗi Tại Ông Phạm Duy

Hoàng Chính

1
Hồi nhỏ, hắn không hiểu tại sao chị hắn lại bất kể sự cấm cản của gia đình, bỏ nhà theo người con trai thường ôm đàn, hát mỗi một bài ...chiều về trên cánh đồng xanh, có nàng gánh lúa cho anh ra đi giết thù... Lớn lên biết được rằng đó là bài Nhớ Người Thương Binh của Phạm Duy, hắn tìm ngay được câu trả lời. Mẹ hắn nguyền rủa gã thanh niên đã cướp đi đứa con gái bà thương yêu hết mực. Hắn nhớ nét cười tươi tắn trên khuôn mặt rám nắng, dưới mái tóc húi cua. Hắn nhớ luôn đôi mắt sáng trên vầng trán chữ nhật. Và giọng hát trầm trầm; và tiếng đàn réo rắt. Bố đổ lỗi cho mẹ. Bà chiều chuộng nó, muốn gì được nấy. Nó là cái thứ được voi đòi tiên. Ông bà mình nói con hư tại mẹ cháu hư tại bà thật không ngoa. Mẹ hắn trách bố hắn bỏ bê con cái. Rằng ông không bao giờ có một lời hỏi han xem con mình sống chết ra làm sao. Cùng quẫn trong cơn giận, cả hai đổ lỗi cho nhà trường đã dạy con gái mình biết đọc tiểu thuyết, biết đua đòi theo cô Loan Đoạn Tuyệt. Biết lưu bút ngày xanh, biết hẹn hò lén lút. Riêng hắn, hắn nghĩ không phải tại bố mẹ. Chị hắn bỏ cha mẹ, anh em, trốn theo người tình là tại ông Phạm Duy.

Chiến tranh ăn dần vào cái yên ổn hiếm hoi của những con đường thành phố. Tiếng còi báo động pháo kích nghe quen tai. Hắn lớn lên cùng với chiến tranh. Tiếng khóc người quả phụ lúc đi nhận xác chồng ám ảnh hắn hằng đêm. Những trái lựu đạn ném vào đám đông. Chiến tranh. Quân ta. Quân địch. Những khúc quân hành. Những bản trường ca. Và không biết bao nhiêu bản tình ca nồng nàn.

Mười chín tuổi, mơ tưởng bóng hình người con gái học chung trường. Hắn theo nàng, dãi nắng, dầm mưa. Đầu cứ mang mang những lời hát từ một khúc ca nổi tiếng. Lúc đón đầu được nàng, trong lúc đôi mắt người con gái mở lớn ngạc nhiên, hắn đã buột miệng ngâm nga, ... đưa em về dưới mưa, nói năng chi cũng thừa. Người con gái nhìn hắn ngỡ ngàng. Đôi má lấm tấm nước mưa hồng thêm một chút. Đôi môi vạch mỏng một nụ cười. Nhưng cái giọng thì lạnh tanh : ...ăn trộm nhạc Phạm Duy phải không ? Hắn á khẩu.

Lỗi tại ông Phạm Duy cả. Nếu không có bài hát ấy hẳn hắn đã tìm được lời nào đó, cho dù có thô sơ, èo uột thì cũng vẫn là của riêng hắn, đâu đến nỗi mang tiếng ăn trộm nhạc người ta. Lỗi tại ông Phạm Duy hết.

Hai mươi tuổi. Yêu. Làm thơ tặng một người con gái. Khốn nỗi nàng chỉ mê nhạc. Hắn ôm cuốn sách chép nhạc thơm mùi nước hoa của nàng về nhà, hì hục chép ngày đó có em đi nhẹ vào đời lên trang thứ nhất. Hắn tỉ mỉ kẻ nốt nhạc. Bỏ cơm chiều, bỏ luôn cả ôn bài thi. Ngày hôm sau, ngồi trong giảng đường cắn bút, nghĩ đến kết quả bi đát của kỳ thi cuối khóa; lời hát quen lao xao trong trí ...ngày đó có em ra khỏi đời rồi... Hắn đâu có ngờ một ngày người ta lại bỏ đi như thế. Lỗi tại ông Phạm Duy ráo trọi.

Thất tình cũng có cái hay. Nó giúp kẻ có tài năng viết nên được những vần thơ nhức nhối. Hắn mơ được như Nguyễn Tất Nhiên. Nhờ ông nhạc sĩ nào đó gửi đến con người phụ bạc những lời nguyền da diết. Đại khái như khiến người tên Duyên đau khổ muôn niên. Có thơ được được nhạc sĩ tài danh phổ nhạc là niềm hạnh phúc lớn. Thành ra hắn cạy cục tìm địa chỉ ông Phạm Duy. Thơ nằm trên trang giấy mới chỉ là chim cánh cụt. Bạn hình dung ra con chim cánh cụt thường bước lững thững trên những bãi biển nam cực không. Thơ của hắn giống loài chim cánh cụt. Những con chim lẩn thẩn nhặt nhạnh cá vụn trên cát ướt. Những con chim có cánh nhưng chả bao giờ bay. Thơ được phổ nhạc là chim chắp được đôi cánh để bay cao. Hắn tin chắc như thế. Khổ nỗi mấy ông nhạc sĩ toàn tìm thơ của những nhà thơ đã nổi tiếng mà phổ nhạc. Mấy ông nhạc sĩ nhát gan, yếu tim. Và hắn không nổi tiếng cũng tại ông Phạm Duy.

Chiến tranh càng ngày càng khốc liệt. Hàng đêm, ánh hoả châu thắp sáng chân trời ven đô. Đến một lúc nào đó, kể cho con cháu nghe có một thời cha ông phải thả những đốm lửa lên bầu trời đêm, để xua đi những hãi hùng của đêm tối, hẳn chúng sẽ ngỡ ngàng. Vào lính, hắn người lớn hẳn lên.

2
Anh không còn buồn kiểu học trò. Nhưng những lúc dừng quân nơi một thôn xóm nào đó, tình cờ nghe được trong những câu vọng cổ, một khúc hát quen, chẳng hạn đường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người, lòng anh cũng chùng xuống, nao nao. Và anh dấu diếm nỗi buồn thoáng qua ấy một cách khó khăn. Cũng tại ông Phạm Duy hết.

Hết chiến tranh. Họ đưa anh đến tận Hoàng Liên Sơn. Mẹ Việt Nam không son không phấn. Mẹ Việt Nam chân lấm tay bùn... Anh thấy quê hương mình khổ đau cùng cực. Nhưng nếu chỉ nhìn thấy cảnh khổ không thôi người ta đâu đến nỗi đau thắt ruột gan như khi nghe được những lời ca nói lên được cả một nỗi niềm. Tôi đi từ ải Nam Quan qua vài ngàn năm lẻ. Hồi đó anh ở U Minh, Năm Căn, Đồng Tháp, bây giờ, anh ở miền thượng du phía bắc. Anh tự nhủ đâu cũng là quê hương. Những lời ca theo anh. Những lời ca đã làm anh bị cai tù mắng mỏ nặng lời. Lỗi tại ông Phạm Duy cả.

3
Mười mấy năm sau, đi tù về, ông què mất một chân. Đẵn cây trên núi kéo về trại. Còn sống được là may rồi. Ông tự nhủ. Nghe lũ trẻ kháo là ông đang hỏi tìm đường về nhà, mẹ ông men vách tường ra hiên đứng đợi. Ông tự nhủ từ lúc bước ra khỏi trại giam là sẽ cứng cỏi như những ngày trai trẻ; dù mủi lòng đến thế nào cũng không khóc để mẹ yên lòng.

Nhìn con mắt sâu hoắm đục lờ của mẹ, ông không nói nên lời. Một tay bà cụ run run níu ngực áo ông, một tay mò mẫm tìm vết tích thân quen trên khuôn mặt đứa con trai bặt tông tích từ không biết bao lâu. Và lời hát của một bài ca xưa cũ đổ đầy tâm tư ông. Níu áo người xưa ngỡ trong giấc mơ. Tiếc rằng ta đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ. Ông bật khóc. Nước mắt ông dính nham nháp những ngón tay xương xẩu của mẹ. Nước mắt ông làm mẹ cuống cuồng. Mày về đấy hở con. Mày khóc đấy à. Mày có sao không hở con. Mày khổ lắm hở con. Và bà cụ rũ xuống, như cành cây chết héo. Ông điếng hồn. Lỗi tại ông Phạm Duy tất cả.

Những ngày ngồi đan rổ cho tổ hợp mây tre, thầm hát trong đầu những bài tình ca thuở nào, ông tự nhủ không biết giờ này tác giả những bài hát ấy đang làm gì ở xứ người. Ông lén mở đài VOA, nghe Carol Kim hát ở bên nhà em đi lao động. Ông nhớ những người còn sống. Ông nhớ luôn cả những người không còn sống... ở bên này anh ra biển rộng gọi trùng dương. Lòng đã cạn khô, ông không còn biết ngậm ngùi. Nhưng nỗi ngao ngán giăng đầy. Vẫn tại ông Phạm Duy. Ông tự nhủ.

Một hôm ngồi quán cóc uống ly xây chừng với người bạn thời trung học, kẻ đã cùng ông mơ tưởng chuyện làm thơ viết nhạc thuở học trò, ông nghiệm ra rằng không một bản nhạc nào của Phạm Duy tiên đoán về những ngày tối tăm sẽ có thể xảy ra trên quê hương. Mày thấy không, George Orwell còn có 1984, mô tả chính xác cơn ác mộng con người dưới chế độ Cộng Sản. Ngay cả vị chỉ huy trưởng đơn vị ông ngày nào cũng đã từng nhắc nhở mọi người về viễn ảnh của quê hương khi bị đặt dưới quyền lực của những người muốn áp đặt cả một dân tộc vào cái khuôn cố định. Mai kia tụi nó vào thì tha hồ ngồi chai đít mà học chính trị.

Những người ham mê nghệ thuật thường nghe lời người nghệ sĩ sáng tác hơn cả cha mẹ. Bạn ông nói thế. Vậy mà ông Phạm Duy đã không nói trước đến một ngày tối tăm trên giải đất cụt què này. Không một nhạc sĩ nào, không một nhà văn, nhà thơ nào báo trước một ngày quê hương đổi chủ. Có phải tại vai trò người nghệ sĩ là tô điểm cho cuộc đời nên họ chỉ loan báo những tin vui? Dù sao ông vẫn nghĩ là lỗi tại ông Phạm Duy.

Mấy mươi năm sau gặp lại người thiếu nữ năm xưa. Cái người ông đã một thời mơ tưởng được dìu nhau đi trên phố vắng. Ngỡ ngàng. Nhưng người đàn bà không cho phép ông làm mặt lạ. Tóc chẻ ngôi giữa. Muối tiêu trắng đầu. Quán cóc bên đường phố. Người đàn bà không tính tiền ly cà phê sữa nhỏ. Người đàn bà đưa cho ông coi cuốn sách chép nhạc thuở nào. Ông thấy lại nét chữ của gã si tình thuở trước. Ngày đó có em ra khỏi đời rồi. Ông nhìn đăm đăm những cái đuôi chữ i bay bướm. "Hồi đó... lỗi tại anh." Người đàn bà vẫn vậy. Nói năng từ tốn. "Lấp lửng... chẳng ra làm sao cả!" Ông gấp cuốn sách lại, vuốt ve cái bìa đã sờn rách, "Tại ông Phạm Duy, Quyên ạ. Lỗi tại ông Phạm Duy hết."

Hoàng Chính
12 tháng 04, 2002


mấy ý nghĩ chung quanh
HÀNH TRÌNH ÂM NHẠC PHẠM DUY

Phố Tịnh

Phạm Duy đã hát một đời qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống, từ thời nhạc tuổi xanh đến thời kì ngạo nghễ hào khí của kháng chiến, từ tiếng hát vững chãi khẳng định dáng đứng Việt Nam đến tiếng hát sâu lắng của cõi tâm, từ tiếng hát về niềm yêu thương bao la của mẹ đến tiếng hát phẫn nộ, tiếng hát về những bi kịch của đời người, hay lời hạnh phúc của những người yêu nhau. Cuộc đời sáng tác của ông cũng rất dài, bao trùm qua nhiều thế hệ. Trong vòng 60 năm góp mặt, Phạm Duy đã hát về rất nhiều đề tài, phản ảnh những tâm cảnh khác nhau của một người Việt Nam trước cuộc sống đa dạng: lắm vinh quang nhưng cũng rất nhiều khổ nhục.

Bài hát đầu tiên của ông là một bài thơ phổ nhạc: Cô Hái Mơ (1942) cách nay đúng 60 năm. Ca khúc này ra đời trong buổi bình minh cuả "nhạc cải cách", sau này gọi là "tân nhạc". Dù không phải là người sáng tác ca khúc tân nhạc đầu tiên, ông vẫn nghiễm nhiên là một trong số những nhạc sĩ tiền phong của phong trào tân nhạc trong buổi đầu. Trong suốt sáu mươi năm sáng tác, Phạm Duy đã đem đến cho công chúng Việt Nam ngàn lời ca, đã làm rung động nhiều thế hệ. Có thể nói là trong sáu mươi năm qua, không thế hệ người Việt nào là không "nợ" Phạm Duy một món nợ tình cảm là được lưu dấu xúc cảm của riêng mình trong ít nhất là một khúc hát của ông.

Phạm Duy có một đức tính ít thấy ở người nghệ sĩ: óc tổ chức các tài liệu sáng tác của chính mình. Từ khoảng hơn mười năm trở lại đây, ông đã tự mình đi sưu tầm tài liệu trong các văn khố hay trong trí nhớ của người xung quanh để sưu tập và sắp xếp phân loại lại toàn bộ các sáng tác của mình. Kết quả của công trình nói trên là các tập Hồi Ký 1, 2 3, tập Ngàn Lời Ca (Midway City: PDC Musical Proctions, 1987), công trình CD Rom Hành Trình Trên Đất Mẹ (1992), và nhất là trang nhà của chính ông trên mạng lưới thông tin toàn cầu (Web) mang tên: Ngàn Cánh Nhạc (tức là Phạm Duy Anthology) . Nhờ những công trình đó mà ngày nay công chúng thưởng ngoạn hôm nay có thể tìm biết và nghe nhạc Phạm Duy không khó lắm.

Trong công trình Phạm Duy Anthology (Ngàn Cánh Nhạc), ông căn cứ theo thứ tự thời gian và đề tài để phân loại các mảng bài hát theo thứ tự ra đời của chúng. Ông tự chia tác phẩm mình ra thành thanh niên ca, dân ca, kháng chiến ca, quân ca, trường ca, tâm ca, tục ca, vỉa hè ca, bình ca, nữ ca, bé ca, đạo ca, tị nạn ca, ngục ca, hoàng cầm ca, rong ca, thiền ca. Và dĩ nhiên là không thể thiếu tình ca được. Kể cũng khó có thể dùng bảng phân loại này để thu tóm đủ các khuôn dáng một sự nghiệp đồ sộ như vậy. Chẳng hạn, tâm ca, đạo ca và rong ca rất gần nhau về tính cách, vì chúng đều nhằm diễn đạt khía cạnh những suy nghiệm nội tâm, những cảm thức tâm linh; về mặt nào đó ba mảng sáng tác này khá gần gũi nhau và do vậy có thể xếp vào một nhóm. Một trường hợp khác: loạt ca khúc "Tị nạn ca" và "Ngục ca", "Hoàng Cầm ca" dù khác nhau rất xa chủ đề nội dung, nhưng lại có thể quy vềợ một nhóm sáng tác phản ánh thời thế, hiện thực xã hội.

Trước hết, hãy dạo qua một lượt Phạm Duy Anthology để thấy sức sáng tác liên tục và bền bỉ của ông. Hành trình sáu mươi năm âm nhạc Phạm Duy đã dàn trải qua nhiều chặng đường, với những thành tựu về tác phẩm khác nhau. Sáng tác của Phạm Duy thật phong phú đa dạng biết là chừng nào, từ đề tài đến thể loại. Trong suốt hơn sáu mươi năm tân nhạc, các nhạc sĩ khác thường chỉ nổi bật qua một số đề tài nào đó, phổ biến nhất là đề tài tình yêu. Thể loại sáng tác chỉ là những ca khúc. Nghe nhạc Phạm Duy có thể nhận thấy đề tài ca khúc của ông dàn trải rất rộng. Hiện thực cuộc sống Việt Nam trong mấy chục năm qua được phản chiếu qua tác phẩm của ông. Cho đến nay vẫn chưa có một bảng tổng kê các chủ đề lớn trong nhạc phẩm Phạm Duy. Ngay đến một đề tài quen thuộc của ca khúc tân nhạc, -- nhạc tình -- cũng có thể nhận ra những sắc màu phong phú của nhạc tình Phạm Duy. Trong một thiên biên khảo về lịch sử tân nhạc Việt Nam, Phạm Duy cho rằng nhạc tình có nhiều dạng: nhạc tình cảm tính (romantique), nhạc tình não tính (cérébral), nhạc tình ảo tính (psychedélique), nhạc tình dục tính (sensuel). Các bản tình ca của tân nhạc chúng ta trước nay thường không ra ngoài chất nhạc tình cảm tính. Hoạ chăng có nhạc tình Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương có thể thêm vào danh mục những bản tình ca phong phú sắc màu như bảng phân loại của Phạm Duy mà thôi. Có lẽ chỉ trong nhạc tình Phạm Duy mới thấy đủ dáng vẻ của những bản tình ca theo như cách phân loại của ông.

Một nét đặc biệt nữa của nhạc Phạm Duy là nó phản ảnh sống động những tâm cảnh của ông và của mọi người Việt Nam chúng ta trước cuộc sống. Phạm Duy không chỉ hát về những cuộc tình, mà ông còn hát về những bà mẹ, về quê hương đất nước yêu dấu (mà về cuối đời ông xem là những lời hát xưng tụng quê hương thần thánh kia chỉ là những lời ca ảo tưởng về một quê hương không thật), về những vui buồn của những con người quanh ông trong một thời đất nước rất tan lìa. Ông hát khi một sớm mai thức dậy nghe tin người thân ngã gục ngoài chiến trường, ông hát cùng những em bé, những cụ già vất vưởng trên đường quê, ông hát về tâm tình của một người quả phụ chiến tranh, về một chiếc là trong mưa, về hai người lính trẻ, về những chuyến đi xa đầy ngậm ngùi về thân phận nhược tiểuà Hiện thực Việt Nam sẽ hiện ra ngồn ngộn trong ca khúc Việt Nam qua dọc dài những sáng tác của Phạm Duy. Rồi đây cũng cần những cố gắng hệ thống hoá những đề tài trong nhạc phẩm Phạm Duy để nhận ra những tâm cảnh Việt Nam qua những tiếng hát đó.

Trên đây là nói về đề tài. Đến thể loại sáng tác cũng là một nét đặc sắc của sự nghiệp âm nhạc Phạm Duy. Từ ngày thành lập đến nay đã hơn 60 năm, tân nhạc Việt Nam cho đến nay vẫn còn đang chuộng hình thức thể loại ca khúc. Những bài hát từ thời "tiền chiến" đến thời hậu chiến, rồi thời nhạc nhẹ hiện nay đều dưa vào thể loại ca khúc là hình thức sáng tác cho nó. Đó là một khúc hát gồm có một hoặc nhiều phiên khúc và một điệp khúc . Phạm Duy là một trong những người tiên phong tìm tòi thể nghiệm về mặt thể loại cho ca khúc tân nhạc. Ông làm khá nhiều trường ca, xem như là một hình thức thể loại mới và công phu hơn thể ca khúc rất nhiều. Trước ông đã có một vài thể nghiệm về thể loại trường ca của Lê Thương (Hòn Vọng Phu) và Phạm Đình Chương (Hội Trùng Dương). Mặc dù đã ý thức về đoạn mạch, bố cục và tính nhất quán về ngôn ngữ nhạc, các trường cà vừa kể đều là tập hợp của ba ca khúc có đoạn mạch khá đồng dạng, xem như những khung âm thanh để chuyển tải những lời hát kể chuyện mà thôi. Đến Phạm Duy thì thể nghiệm thể loại đã nâng cấp một bước dài. Từ những đoản khúc dân ca mới, rồi dân ca phát triển mà bố cục không vượt quá xa cấu trúc những bài dân ca truyền thống, Phạm Duy đã đẩy những ca khúc phát triển từ dân ca lên thành những tổ khúc nhiều chương đoạn kết với nhau thành một chỉnh thể những biến tấu theo quy tắc kí âm phương tây nhưng vẫn đậm nét nhạc dân tộc. Trường ca Con Đường Cái Quan (1960) và trường ca Mẹ Việt Nam (1964) là những thành tựu về thể loại này.Sau này, hình thức tổ khúc (mà ông gọi là "trường ca") lại thêm màu sắc của kịch -- như trường hợp tổ khúc Bầy Chim Bỏ Xứ (1990) và Minh Hoạ Kiều I (1997) và Minh Hoạ Kiều II (2002). Đây là những tìm tòi rất có ý nghĩa về mặt thể loại không ai có thể phủ nhận.

Cũng trong sự tìm tòi về mặt thể loại, có lẽ cũng chính Phạm Duy là người mở đường cho hình thức những tập hợp nhiều ca khúc xoay quanh một chủ đề để làm những tập ca khúc đầu tiên tại Sài Gòn vào những năm 1960. Chúng tôi muốn nhắc đến tập Mười Bài Tâm Ca (1965) như là một khai phá đầu tiên của ông về mặt thể loại tập ca khúc. Những thể nghiệm nghệ thuật bạo dạn như Phạm Duy đã và đang làm, không thấy có nhiều trong sinh hoạt nhạc Việt hôm nay.

Cũng qua trường hợp Phạm Duy, chúng ta có thể thấy là tân nhạc Việt Nam hiện đang có những tìm tòi thể loại để phát triển nó trong tinh thần Việt Nam. Thể loại ca khúc khi du nhập Việt Nam đã và đang thoát hình để hội nhập trong dòng nhạc nước nhà. Những tìm tòi khai phá về thể loại mà Phạm Duy và những người cùng thời đã nói lên khát vọng sáng tạo tân nhạc trên cơ sở dân tộc-hiện đại.

Hành trình sáu mươi năm của nhạc Phạm Duy như thế là một hành trình dài, đa dạng và phong phú. Hôm nay, nhìn lại hành trình âm nhạc của ông, tôi hình dung cuộc hành trình đó như một hành trình ba chặng lớn, từ một thời hồng của tuổi thanh niên sang thời tuổi vàng -- là thời sung mãn nhất của một đời người --, và hiện nay ông đã bước qua thời xanh, khi tuổi đã già nhưng tiếng hát vẫn còn nguyên sức trẻ của sáng tạo.

(1) Thời hồng :
xưng tụng quê hương huyền thoại

(1942-1964)

Phạm Duy khởi đầu sự nghiệp âm nhạc của mình bằng công việc ca hát trên sân khấu ca nhạc. Năm 1941, ông bắt đầu hát trên sân khấu Đức Huy-Charlot Miều. Trong không khí hứng khởi của buổi đầu tân nhạc, ông bắt đầu sáng tác một bản nhạc tình phổ từ một bài thơ mới. Đó là bài Cô Hái Mơ. Một số bài sau đó là những bài hát mang khí vị cổ điển từ tựa đề bài hát cho đến nội dung. Đó là những bài Gươm Tráng Sĩ, Chinh Phụ Ca. Phong vị cổ điển này sẽ còn in dấu trong các sáng tác về sau, khi ông tham gia kháng chiến chống Pháp. Những bản nhạc tình như Cây Đàn Bỏ Quên (1945), Khối Tình Trương Chi (1945), Tình Kỹ Nữ (1946) đều phảng phất không khí cổ điển như thế.

Đi kháng chiến, ông được bắt rễ trở lại với dân dã, gần gũi quần chúng. Tác phẩm của ông dần dà được định hình trong khuynh hướng rất nhất quán suốt thời gian sáng tác sung sức nhất của ông trong thời gian ở vùng kháng chiến. Phạm Duy đã xác định con đường sáng tác của mình: dựa trên cơ sở dân ca mà phát triển lên thành ngôn ngữ nhạc mới cho mình. Một loạt những bài dân ca kháng chiến và những bài khác đều mang một phong cách chung: trở về với chất liệu dân ca để nâng lên thành thẩm thức mới cho thời hiện đại. Những bài dân ca mới hay có khi còn gọi là dân ca kháng chiến trong giai đoạn này đã mở đường cho một loạt những thành tựu mới -- những bài dân ca phát triển -- khi ông vào Sài Gòn (1951). Có thể nói là những năm tham gia kháng chiến đã giúp định hình cho khuynh hướng và quan điểm sáng tác rất nhất quán của Phạm Duy trong những năm về sau này. Đó là sáng tác những tác phẩm ca khúc dựa trên cơ sở điệu thức ngũ cung của âm nhạc truyền thống, nhưng vẫn mang tâm tình của thời hiện đại. Từ đây nhạc Phạm Duy được bay bổng. Thập niên 50 và 60 là giai đoạn của những sáng tác rất điển hình cho chiều sâu xúc cảm của người nghệ sĩ sáng tác trong thời kì này. Đây là thời kì của hai trường ca Con Đường Cái Quan (1960) và Mẹ Việt Nam (1964).

(2) Thời vàng:
hát về hiện thực quê hương hôm nay

(1965-1988)

Năm 1964 đánh dấu một chuyển hướng trong sáng tác của Phạm Duy. Sau khi trường ca Mẹ Việt Nam ra đời, ông ôm đàn đi đến các tụ điểm học sinh sinh viên để hát về Mẹ Việt Nam. Có lẽ qua những chuyến đi này, ông có dịp nhìn lại khoảng cách giữa tác phẩm của ông và hiện thực cuộc sống chung quanh ông vào những năm tháng ấy. Năm 1964 là thời gian miền Nam đang trải qua những biến động chính trị, cộng thêm với sự leo thang của chiến tranh, đã dẫn đến những khủng hoảng xã hội. Văn học nghệ thuật đã tự làm những cuộc tự vấn lương tâm qua những diễn đàn như tập san Giữ Thơm Quê Mẹ (1963), Hành Trình (1964), tập san Thái Độ (1965), rồi tạp chí Đất Nước (1966). Không khí học thuật lúc bấy giờ đã tác động mạnh đến các sinh hoạt văn nghệ giai đoạn này.

Từ những giai điệu mượt mà óng chuốt của trường ca Mẹ Việt Nam đến những bài tâm ca trần trụi, khô khốc và nhiều dằn vặt, là một khoảng cách quá lớn. Phạm Duy ra mắt những bài Tâm Ca là một bước chuyển hướng quan trọng trong sáng tác ca khúc, không những của riêng ông mà còn cả những người sáng tác trẻ ở thế hệ sau, như Nguyễn Đức Quang, Trịnh Công Sơn. Trước kia, trong thời tham gia kháng chiến, Phạm Duy cũng đã có những bài hát rung động lòng người vì tính cách hiện thực của chúng. Những bài dân ca kháng chiến hay những bài hát về Bà Mẹ Gio Linh, về Thu Chiến Trường chẳng hạn là những bài hát về hiện thực hùng tráng của đất nước trong thời kháng chiến:
Mẹ già cuốc đất trồng khoai
Nuôi con đánh giặc đêm ngày
Cho dù áo rách sờn vai
Cơm ăn bát vơi bát đầy
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen này
Mẹ mừng con giết nhiều Tây
Ra công xới vun cầy cấy
Hò ơ ới hò! Hò ơ ơi ới hò!...
(Bà mẹ Gio Linh-1948)

Hiện thực Việt Nam trong Mười Bài Tâm Ca và những bài trong thời gian sau đó là một hiện thực khác, nhiều ray rứt, khắc khoải và chia lìa:
Sáng nay vừa thức dậy
Nghe tin em guc ngã ngoài chiến trường
Nhưng trong vườn tôi
Vô tình khóm tường vi
Vẫn nở thêm một đoá...
Tôi vẫn sống ! Tôi vẫn ăn ! Và tôi vẫn thở !
Tôi vẫn sống ! Tôi vẫn ăn ! Và tôi vẫn thở !
Nhưng biết bao giờ
Tôi mới được nói thẳng
Những điều tôi ước mơ ?
(Tâm ca số 1 - Tôi ước mơ -1965)

Một phần khá lớn những ca khúc Phạm Duy trong thời kì này là những bài hát về cuộc chiến đang leo thang dữ dội, về những hệ luỵ của chiến tranh đối với đời sống mổi con người bình thường. Loạt ca khúc mang tên Tâm Phẫn CaQuê hương Tồi Tệ, Bình Ca là những bài hát phản ánh những âu lo, buồn khổ cùng niềm vui của những con người đi qua cuộc chiến. Hẳn nhiên là Phạm Duy vẫn làm nhạc tình. Giai điệu những bài tình ca của ông vẫn trữ tình, mượt mà như những bản tình ca trong khoảng thời gian những năm 1950 của thời kì trước. Nhưng dáng vẻ tình yêu trong một bài hát như Cỏ Hồng chẳng hạn vẫn mang tính cách thời đại của nó: khuôn mặt tình yêu trong một thời bất trắc dường như vẩn nhiều lo âu, như hối hả, như khắc khoải.

Trong thời kì này Phạm Duy có làm Mười Bài Đạo Ca (1972). Ra đời trong thời gian này, tập đạo ca dường như lạc lõng trong diễn trình sáng tác của Phạm Duy, nhưng không phải vậy. Tập ca khúc này phản ảnh rất trung thực bối cảnh văn hoá miền Nam lúc đó: thời chiến tranh khốc liệt và nhiễu nhương cũng là thời kì xã hội đi tìm những điểm tựa. Miền Nam lúc ấy đang dấy lên phong trào văn học nghệ thuật Thiền đạo như một thời thượng văn hoá nhưng cũng là một sự cầ nthiết để góp phần hoá giải những đau khổ khắc khoải trong tâm thức văn nghệ sĩ và trí thức buổi ấy. Mười Bài Đạo Ca phản ảnh tâm thức Phạm Duy trong những năm tháng ấy mà thôi.

Năm 1975 là một năm bản lề lớn trong đời Phạm Duy. Sau hơn 30 năm sáng tác trong lòng đất nước, nay ông lưu vong ra hải ngoại. Sau cơn chấn động tâm lí nặng nề, Phạm Duy cầm bút trở lại, và viết một loạt những bài hát thời thế mà sau này ông gộp chung trong loạt bài Tị Nạn Ca. Loạt bài hát này ít được phổ biến trong công chúng nghe nhạc, nhưng nó có chỗ đứng rất quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp Phạm Duy. Một phần lớn những ca khúc trong nhóm này là những ca khúc đơn giản về khúc điệu, một nét phong cách của những ca khúc thời thế của ông, bắt đầu từ những bài ca thời kháng chiến đến những bài tâm ca. Nội dung những ca khúc là những khắc khoải của một người nghệ sĩ lưu vong lạc lõng giữa nơi xa lạ, và hoang mang trước viễn cảnh về tương lai. Những bài hát ra đời trong giai đoạn mười năm đầu tại Hoa Kì là những bài hát nói về những cảnh khổ của những gia đình bị chia cáxh, những oan khổ của con người vì chia li, thù hận. Ca khúc của Phạm Duy trong giai đoạn này đôi khi loé lên những lời phê phán gay gắt đối với thời thế, sự phẫn nộ đối với thân phận nghiệt ngã đè nặng lên những nạn nhân của một thời nhiễu nhương cùng cực. Thời kì này sẽ kết thúc khi ông hoàn tất những nét nhạc cuối của tổ khúc Bầy Chim Bỏ Xứ (1985). Đây là một tác phẩm dài hơi, đã thai nghén từ khá lâu ố từ những ngày cuối cùng của ông tại Sài Gòn (1975) ố và đã kết tinh những khắc khoải cao nhất và sâu lắng nhất, và nó cũng phản ảnh cô đọng nhất những ước mơ của Phạm Duy về hiện thực Việt Nam đương đại. Nếu ngày trước, ông đã hát về đất nước hào hùng qua lịch sử (trong Con Đường Cái QuanMẹ Việt Nam) thì bây giờ đây, trong Bầy Chim Bỏ Xứ, ông hát về những đau thương cùng tột của đất nước mà ông đang cùng sống với mọi người, ông hát về những hoài vọng cho tương lai khi đất nước hồi sinh. Khi hoàn tất Bầy Chim Bỏ Xứ, Phạm Duy cũng bắt đầu bước vào một thời kì mới trong sự nghiệp sáng tác của ông.

(3) Thời xanh:
hát trên đường về cõi vô cùng
(1988-2002)

Năm 1988 đánh dấu sự ra đời của một tập ca khúc rất lạ, và có cái tựa rất dài: Mười bài Rong Ca: Người Tình Già Trên Đầu Non (Hát Cho Năm 2000). Mười bài rong ca có hai chủ đề chính: chủ đề thứ nhất là những bài hát mang tính cách tổng luận về những đổ vỡ, đau thương mà nhân loại đã phải trải qua trong suốt thế kỉ XX; chủ đề thứ nhì là những cảm nhận của người nghệ sĩ về tiếng gọi càn khôn. Phải nói ngay là cả hai chủ đề trên không phải là mới lạ đối với Phạm Duy. Chủ đề thứ nhất là gì nếu không phải là những tiếng hát về hiện thực cuộc sống chung quanh ta? Đấy là một chủ đề quen thuộc trong sáng tác Phạm Duy từ bao năm qua mà thôi. Có khác chăng là ở đây, hiện thực đã được lọc lại ở mức độ khái quát cao nhất. Sang chủ đề thứ hai, thì phải nói là Phạm Duy cũng đã tiếp cận với nó từ rất sớm, ngay từ những năm kháng chiến trên núi rừng Việt Bắc. Khi ấy, chàng trai trẻ Phạm Duy đi ngang qua chiếc cầu biên giới, chợt thốt lên một câu hỏi rất siêu hình: Lòng tôi sao vẫn còn biên giới? Hồn tôi sao vẫn ngừng nơi đây? (Bên Cầu Biên Giới - 1947). Những ám ảnh khát vọng siêu hình ấy còn trở lại nhiều lần nữa, chẳng hạn trong bài Tìm Nhau (1956) có những câu hát rất lạ khi đặt trong môt bài tình ca: Tìm trong câu thơ cổ, tìm qua tranh tố nữ, tìm trên môi đương ca câu thương nhớ - Tìm sâu trong muôn thủa, tìm sau lưng bốn mùa, tìm nhau như Thiên Cổ tìm Nghìn Thu. Những ám ảnh siêu hình kia sẽ trở lại ở mức độ dàn trải nhất, sâu sắc nhất trong Rong Ca như một sự tiếp nối mà thôi.

Tiếp nối Rong CaMười Bài Thiền Ca: Hát Trên Đường Về (1992). Tác phẩm này hát về một chủ đề rất siêu hình: hạnh phúc trong cõi thường lạc. Nếu hạnh phúc trong tình yêu có khi sẽ trở thành những vết thương rướm máu, thì niềm hạnh phúc trong thế giới của ngã tịnh thường lạc là một cõi an bình trong suốt, ở đó không có vẩn bụi đau khổ, không có những vết xước của thù oán, không có những xao động của lo âu. Mười bài thiền ca là những tiếng hát về cõi an lành đó. Nét nhạc thanh thoát lạ thường, lời hát cũng lãng đãng như vô nhiễm.

Đến Trường Ca Hàn Mặc Tử (1994) thì người nghe nhạc Phạm Duy được tiếp cận một hành trình chinh phục hạnh phúc của người nghệ sĩ, khởi đầu từ những thú đau thương để tiến về cõi vĩnh hằng trong thế giới không còn phân biệt, nơi chỉ còn tình yêu không mùa.

Khi những tác phẩm nói trên vừa ra mắt công chúng, có người đã tỏ ra ngỡ ngàng về một Phạm Duy khác, rất khác với người nhạc sĩ của những bài tình ca lãng mạn tuyệt vời, rất khác với một Phạm Duy với đôi mắt ráo hoảnh nhìn thẳng vào hiện thực nhân gian.

Thật ra, nếu nghĩ rằng Phạm Duy nay đang lui dần về sáng tác những tác phẩm cho riêng ông bởi vì không còn bóng dáng những hình ảnh quen thuộc trong các ca khúc bao lâu nay, thì cũng xin lưu ý là từ những ngày xa xưa, khi còn trẻ, Phạm Duy đã có những bài hát mang những chủ đề trừu tượng, hướng nội. Người thanh niên ấy từng nghe tiếng gọi huyền nhiệm từ trong sâu thẳm của nội tâm. Tiếng đời nào phải chỉ có tiếng tình yêu mà còn có những tiếng gọi của thinh không (Lữ Hành), cảm nhận về những biên giới chia cách con người trong những không gian tâm tưởng khác nhau (Bên cầu biên giới)... Cho nên Phạm Duy vẫn chỉ là một thôi, dù là Phạm Duy của Tình Ca, của Cỏ Hồng, của Pháp Thân, của Ngục ca, của Bài Hát Nghìn Thu, của Hát Trên Đường Về, hay của Trăng Sao Rớt Rụng. Đó chỉ là một hành trình rất tự nhiên và nhất quán của một nghệ sĩ. Một nhà phê bình đã dí dỏm nhận xét về đôi mắt Phạm Duy: một con mắt đắm đuối lãng mạn, và một con mắt kia ráo hoảnh, tỉnh táo soi nhìn vào hiện thực . Như thế, ba chặng đường sáng tác của Phạm Duy là sự nối nhau của ba nhịp đời, dù ở ba chặng đời khác nhau nhưng vẫn là một: một con người sống trọn vẹn với nghệ thuật sáng tạo âm nhạc. Ba chặng đường sáng tạo nối tiếp nhau trong một chu trình. Hiện nay, Phạm Duy đang thực hiện công trình cuối đời mình: Minh Hoạ Kiều. minh hoạ ở đây không mang ý nghiã là sự lặp lại, sự sao chép lại một tác phẩm văn học. Tác phẩm gọi là minh hoạ thật ra đã có tham vọng khắc hoạ lại những tâm trạng, những tính cách cuả Kiều trong một khung cảnh và thời gian nhất định. Đó là một thế mạnh cuả âm nhạc trong việc tái hiện cuộc sống. Ở phần I này nổi lên hai điều: trời xuân rạng rỡ và những gợn mây xám báo hiệu giông bão. Cả cái huy hoàng cuả triều đình Gia Tĩnh rồi ra sẽ chỉ là thứ huy hoàng không thật. Nhưng đó là chuyện về sau. Ở trong phần Giáo Đầu và trong phần I này, mọi thứ đều hãy còn là tiềm ẩn. Nghe kĩ, có thể nhận ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. Trong tiếng cười giòn cuả phần I đã nghe ra tiếng thở dài đâu đó.

Một điểm nưã cũng dễ nhận thấy trong suốt hành âm cuả phần I Minh Hoạ Kiều: đấy là bản minh hoạ Kiều hay minh hoạ PD? Ta nghe đâu đây âm vang cuả giai điệu PD cuả Nương Chiều, cuả Ngày Đó Chúng Mình, cuả Tôi Đang Mơ Giấc Mộng Dài, cuả Kỉ Niệm, cuả Em Lễ Chuà Này, cuả Người Tình Tuyệt Vời... Nói thế không có nghiã là PD đã lặp lại chính mình trong công trình mới. Giai điệu PD xưa nay vẫn là những mẩu kỉ niệm về những tâm cảnh chúng ta, thì nay chúng cô đọng lại, dàn trải lại. Ở đây là phong cách PD trong cách thể hiện giai điệu. Nếu nhạc cuả phần I Minh Hoạ Kiều có gợi lại những kỉ niệm về những bài hát cũ cuả PD, thì chỉ là vì giai điệu cuả chúng là những nét đậm cuả phong cách âm nhạc PD mà đã năm mươi năm rồi nó bảng lảng trong không gian Việt Nam. Ở đây cũng còn là phong cách cuả Duy Cường khi thể hiện hoà âm nưã: phong cách hoà âm giàu ấn tượng.

Khí vị âm nhạc trong Minh Hoạ Kiều 1 là một dáng vẻ trữ tình nhưng rất nhiều nostalgia. Trong phần I có âm vọng nhạc đồng quê, có phong vị ca dao ngọt ngào mà chất phác. Ngôn ngữ nhạc PD trong Minh Hoạ Kiều 1 có một nét đặc sắc mà những ai đã nghe nhạc ông không thể không chú ý: phong cách nhạc dân tộc nổi rõ, mặc dù ông không vận dụng một nét giai điệu dân nhạc nào. Nhưng bao trùm lên đó là phong vị giai điệu cuả PD, rất riêng: nhạc đi kiêu kì nhưng vẫn như dễ dàng tự nhiên như hơi thở. Ngôn ngữ nhạc trong tác phẩm này là sự dàn trải, sự tổng hợp cuả phong cách giai điệu PD: nhạc ngũ cung như đã bàng bạc trong giai điệu mượt mà trữ tình, "rất PD".

Phần II - Kiều gặp Tình Yêu vừa mới ra mắt gần đây. Trong phần này, Phạm Duy đã minh hoạ bằng nhạc bốn khúc đàn mà Thuý Kiều đã trình tấu cho Kim Trọng nghe trong buổi thệ ước đầu tiên. Một lần nữa câu hỏi lại được đặt ra: tâm sự Thuý Kiều hay tâm sự Phạm Duy? Nếu khúc nhạc đầu Khúc Đâu Hán Sở Chiến Trường là hồi quang của những hành khúc Phạm Duy ngày nào, vừa lãng mạn vừa hùng tráng, thì cũng chính nó gợi lại những bi tráng của hiện thực Việt Nam trong chính những hành khúc Phạm Duy một thời đã xa đó. Đến khúc nhạc tình Tư Mã Phượng Cầu lại là hồi quang của những thiên tình ca đã làm nao lòng nhiều thế hệ tình nhân trước kia. Ta gặp đâu đó những thổn thức của tình yêu trong nhớ nhung đợi chờ, ta nhói lòng khi nghe tiếng gọi về của tình nhân khi chia xa. Giai điệu tình ca vẫn mượt mà óng chuốt, và vẫn nao nao lòng người. Khúc thứ ba là Kê Khang Này Khúc Quảng Lăng là một mảng khác của tâm sự Phạm Duy, một người nghệ sĩ tự do, không thể trói mình trước những thế lực muốn triệt tiêu tự do của mình. Giai điệu của khúc hát này không phẫn nộ như một tâm ca, không bi tráng như một hành khúc thời thế, không thê lương bi phẫn như một tâm phẫn caà Nó tràn đầy bao dung nhưng vẫn vạch một lằn ranh dứt khoát trong tâm sự Phạm Duy về nghệ thuật. Khúc thứ tư Chiêu Quân là dư vang của tiếng hát Phạm Duy về thân phận nhân gian trên hành trình nhân gian đã từng bàng bạc trong những bài hát rất xa xôi như một Bà Mẹ Gio Linh, một Ngày Trở Về, một Tiếng Hát To, một Kể Chuyện Đi Xa. Ta cũng nghe đâu đây thoáng hiện những nét tâm tình của Phạm Duy trong Rong Ca.

Công trình minh hoạ này vẽ lại những tâm cảnh, minh hoạ lại những mảnh gương soi vóc dáng cuả cuộc đời. Đối với người sáng tác thì đây là sự dàn trải tâm sự cuả hai người cha già tóc trắng ở hai quãng cách thời gian, khi đã qua hết bao nhiêu nhịp cầu nhân thế có mặn mà đấy nhưng cũng nhiều chua xót. Tác phẩm cuả họ đã ngồn ngộn những cảnh đời, những tâm sự ngổn ngang cuả một phận người. Ở đây, không phân biệt đâu là ý nghiã cuả cốt chuyện được minh hoạ, và đâu là tâm sự cuả chính người sáng tác.

Riêng đối với Phạm Duy, tưởng không có chung kết một chu trình âm nhạc dài của bằng một công trình có tính cách tổng hợp nhiều bản sắc âm nhạc của ông đến thế. Một sự kết toán đẹp đẽ về sự thể nghiệm thể loại âm nhạc, về sự phát triển ngôn ngữ âm nhạc qua nét nhạc dân tộc ở trình độ sâu sắc, về sự dàn trải chủ đề âm nhạc ở mức cô đọng nhất. Ba chặng đường âm nhạc Phạm Duy về trùng phùng trong công trình dài hơi này.

Sinh hoạt âm nhạc dù ở trong nước hay ở hải ngoại hiện nay đang rất thiếu thốn sáng tác kịp thời và quan trọng hơn nữa là cần phải phản ảnh tâm tình của thế hệ chúng ta. Người nghệ sĩ lớn không phải là những người chỉ biết sống và làm nghệ thuật từ cái tôi chật hẹp của mình. Anh ta phải sống với cuộc đời chung với mọi người chung quanh, và nghệ thuật của anh là những chứng tích của thời đại anh sống và làm nghệ thuật. Đó là định luật của văn nghệ. Trong các loại hình nghệ thuật Việt Nam đương đại, âm nhạc dường như bị lạc lõng nhất. Người nhạc sĩ sáng tác thường không phải là người sống toàn tâm toàn trí cho nghệ thuật. Âm nhạc luôn luôn là thứ phó sản của cuộc sống một nhạc sĩ Việt Nam; nói khác đi sáng tác âm nhạc của người nhạc sĩ -- trong tuyệt đại đa số nhạc sĩ xứ mình -- chỉ là một thứ nghệ thuật nghiệp dư. Công chúng nghệ thuật có thể đòi hỏi một nhà văn nhà thơ phải dấn thân, phải xuống thuyền. Nhưng người nhạc sĩ Việt Nam trước nay vẫn được ưu ái miễn trừ. Anh ta vẫn cứ thản nhiên hát về những tà áo xanh, hát về những cụm mây lang thang, về những niềm hạnh phúc hay khổ đau rất riêng tư, bé mọn. Nếu có ai hát về một giọt mưa, một vết máu khô trên xác một em bé vừa chết vì mìnà thì bài hát của anh bị liệt vào loại những "tiểu phẩm", bị xem thường. Người ta chỉ quen vinh danh người nhạc sĩ qua những bản tình ca bất tuyệt, mà quên rằng anh ta cũng là một người có vui sướng và đau khổ như chúng ta, anh ta cũng sống giữa đời như chúng ta. Vậy thì tại sao chúng ta vui sướng hay khổ đau với cuộc đời làm người Việt Nam thì người nhạc sĩ lại được quyền miễn trừ?

Nói cho phải thì khi công chúng Việt Nam vinh danh những người nhạc sĩ lớn của mình thì cũng là lúc người ta nhìn ra sự lớn lao của những người nhạc sĩ đã hát về những tâm cảnh Việt Nam. Dựa trên thước đo như vậy, người ta đã rất có lí khi tổng kết về sáu mươi năm tân nhạc Việt Nam, rằng lịch sử nửa thế kỉ bài hát tân nhạc Việt Nam đọng lại một vài khuôn mặt lớn mà thôi. Không nhiều. Trong số ít ỏi những người nhạc sĩ lớn của thế kỉ vừa qua, có Phạm Duy.

Hiện nay đang có một quãng cách rất xa về cung và cầu -- nếu hiểu âm nhạc cũng là một dịch vụ tiêu thụ của xã hội. Ở trong nước có đủ phương tiện sinh hoạt, nhưng những thương phẩm âm nhạc trên đài truyền hình, đài phát thanh, băng nhạc thương mại đều cho thấy tình trạng ngưng đọng trong sáng tác rất đáng lo ngại: quanh quẩn vẫn chỉ hai mảng sáng tác: mảng thứ nhất là những bài hát về những ảo tượng xã hội ngày đã ngày càng trở nên lạc lõng giữa cảnh chợ chiều của chế độ xã hội chủ nghĩa, mảng thứ hai là những sáng tác kiểu "áo tiểu thư", "tuổi ngọc" đã từng nở rộ trong sinh hoạt văn nghệ Sài gòn trong những năm chiến tranh ác liệt và xã hội thị dân đang tù túng trong tình cảnh văn nghệ mất hướng. Nghệ sĩ xung kích như Trần Tiến là một hiện tượng hiếm hoi.

Tại hải ngoại, một rừng thương phẩm âm nhạc cũng không lấy gì làm lạc quan người thưởng ngoạn: khuynh hướng sáng tác nếu không ngoái trông dĩ vãng thì cũng chỉ "chạy tại chỗ" với những đề tài cũ kĩ từ những năm xưa. Thảng hoặc có sáng tác mới có giá trị nghệ thuật thì cũng không đủ ấm nồng đủ để lôi cuốn một công chúng thưởng ngoạn. Những cố gắng của một số nhạc sĩ như Hoàng Quốc Bảo đã chìm lặng trong lạc lõng. Một khoảng trống tâm tình quá dài !

Hiện nay, nhu cầu gìn giữ bản sắc văn hoá đang là một nhu cầu rất lớn của cả thế hệ thứ nhất lẫn thế hệ thứ nhì những người Việt tại hải ngoại. Sinh hoạt trình diễn nhạc Việt ở ngoài này dường như không hề quan tâm mảy may đến nhu cầu như thế. Rất thiếu những sáng tác mang hồn tính Việt Nam mà vẫn đủ tầm vóc hiện đại để đáp ứng nhu cầu giới trẻ. Công chúng hải ngoại đang chờ đợi những tiếng hát thể hiện tâm tình Việt Nam giữa cộng đồng thế giới chứ không phải thứ âm thanh than khóc rất phi hiện thực hay những tiếng gào thét đòi đồng hóa. Cũng là một điều thú vị khi đọc lại một lời phát biểu của Phạm Duy nhân khi trả lời phỏng vấn về hiện tình tân nhạc: Tôi nhận xét hiện nay các nhạc sĩ, dù trong làng cổ nhạc hay tân nhạc, sống lẻ loi cô quạnh quá. Thức ăn bồi dưỡng cho nhạc Việt là sự sống vô cùng phong phú ở thôn quê. Cổ nhạc, nhạc cải cách, nhạc cải tiến, dân ca phát triển, nhạc Việt Nam thuần tuý theo lề lối cổ điển Tây phươngà muốn tốt đẹp phải bắt nguồn vào đời sống nhân dân. Nếu không, nó sẽ chỉ là một món hàng thương mại (như loại nhạc ca lâu hiện nay), hay là một thứ ma tuý dành riêng cho những người si nhạc.

Trong khung cảnh ngưng đọng như thế, Phạm Duy vẫn hát tâm tình của những con người Việt Nam dung dị ở trong nước hay tại hải ngoại. Công chúng cùng ông bâng khuâng, khắc khoải về một thời bất trắc của phận người. Phạm Duy lớn và vững là như thế. Sự có mặt bền bỉ của ông trong sinh hoạt âm nhạc hiện đại vẫn là một cần thiết, như một của tin.

Phố Tịnh


Phạm Duy Trên Khắp Nẻo Tình

Thụy Khuê

Thế kỷ XX khép lại. Với bài Hẹn Em Năm 2000, Phạm Duy mở một bầu trời: đưa người tình vào vĩnh cửu, cuộc hẹn hò tổng kết nhạc trình Phạm Duy trong nửa thế kỷ, gói trọn: tình nước, tình dân, tình quê, tình ái, tình người trong khoảnh khắc âm nhạc và thi ca.

Nhạc sĩ bước vào cuộc tình bằng những bản hùng ca, rực lửa: Ngày bao hùng binh tiến lên, bờ cõi vang lừng câu: quyết chiến !

1945, tất cả lên đường. Kháng chiến là thần tượng đầu đời, là mối tình thứ nhất. Nhạc sôi sục tình nước. Lúc đó văn chương trở thành vô nghĩa, người ta đã xếp bút nghiên theo việc đao cung. Người ta muốn làm tráng sĩ. Hồn say khi máu xương rơi tràn ngập biên khu, Phạm Duy xuất quân. Một Phạm Duy, nhiều Phạm Duy theo nhịp bước mờ trong bóng chiều, một đoàn quân thấp thoáng. Họ, thế hệ ấy, nếu không có âm nhạc, nếu không có Phạm Duy, Văn Cao ... chắc gì đã có hào hùng ? chắc gì đã có kháng chiến? chắc gì đã có ... một mùa thu năm qua Cách mạng tiến ra đất Việt? Ở chỗ văn chương tê liệt (viết để khích động lòng người dễ thành tuyên ngôn), âm nhạc tung toàn năng, toàn lực thúc đẩy thanh niên vào những cuộc khởi hành:
Một đoàn người trai hiên ngang
Đeo trên vai nợ máu xương
. . . . . . .
Dòng máu căm hờn của muôn dân ta
Thiết tha kêu gào bao trai tráng lên đường

Nhưng nếu nhạc chỉ có hùng, thì dễ trở thành chào cờ: Này thanh niên ơi, quốc gia đến ngày giải phóng, nếu chỉ có bi, tất là mặc niệm. Chào cờ và mặc niệm, người ta đứng im. Không ai xông tới. Chào cờ là hết. Mặc niệm là chết. Nhưng khi nghe:
Biên khu u ù !
Biên khu ù u !
Tia vàng son xuyên qua lau mờ
Về trên suối khói lên làn mơ
Nắng trôi về xuôi biết bao thương nhớ
Biên khu ù u !
Biên khu ù u !
Nghe đồi nương khuyên nhau mong chờ
Người lên chốn đất thiêng rừng xa...

... thì đó là lời gọi quyến rũ của núi rừng, của đất nước: Đó là Phạm Duy. Đó là tiếng hú gọi đàn đẩy người người lớp lớp ra đi:
Biên khu u ù !
Biên khu ù u !
Ta nhìn qua Cai Kinh ngang tàng
Chờ tiếng gió Bắc Sơn lùa sang...


Trong tiếng hú có Cai Kinh, Bắc Sơn ... Phạm Duy dựng núi trong lòng người, cấy những linh thiêng của đất nước trong tim người. Biên khu ù u ! Biên khu ù u ! tiếng hú bí mật, hoang đường, thiêng liêng, cao cả hớp hồn những thanh niên, đưa họ lên đỉnh Cai Kinh, ngang tàng nhìn xuống những tia vàng son xuyên qua lau mờ của đất nước. Ánh sáng khuyến dụ họ lên chốn đất thiêng rừng xa, tìm những quyến rũ thầm kín của phiêu lưu, của tuổi trẻ... Phạm Duy, tuyệt đối không tuyên truyền mà mê hoặc, trong khoảnh khắc một bài ca, đã tụ hợp được: hồi quang lịch sử, khí thiêng núi rừng, hồn thiêng dân tộc, lãng mạn con người, Phạm Duy đem nắng trôi về xuôi biết bao thương nhớ. Tại sao tác dụng một bản nhạc lại khác một bài văn ? Ở chỗ văn chương tê liệt, âm nhạc lại vẫy vùng ? Chúng ta thử đọc lại một trong những bài văn thơ yêu nước, thống thiết nhất, ví dụ như của Phan Chu Trinh:
Thế nước đến nguy như sợi tóc
Tài trai thà chết chẳng nghiêng đầu

hay của Huỳnh Thúc Kháng:
Sông Nhật Tảo lửa bùng
Thành Ba Đình súng nổ

hoặc mạnh mẽ như Nguyễn Trãi:
Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy.
Miền Trà My trúc phá tro bay.

Những áng hùng văn đánh vào lý trí, đánh mạnh, đánh mau, nhưng sớm dứt, ít có khả năng tồn tại lâu dài, khi ta không còn trực tiếp đối diện với văn bản. Nhưng một bản nhạc có thể ở lại khi tiếng nhạc, lời ca đã đi qua, nhưng dư âm của nó, trụ lại, rủ rê quyến rũ:
Biên khu ù u ! Biên khu ù u !
Vang thời quân Chi Lăng reo hò,
Rừng in bóng những oan hồn xưa,
Giữa đêm mờ ôi thoáng nghe tiếng hú
.

Âm nhạc tự tạo cách sống còn, rồi Phạm Duy đem tiếng gọi từ xa: ù u ... dấu vào trong tim người để nó ở đấy, chờ đấy. Khi "người nghe" nhớ lại, thì cứ việc rút "nhạc" từ tim mình ra, hát lại trong đầu, tiếng hát thầm trong não trạng kéo hắn lên biên khu u ù cho hắn nhìn qua Cai Kinh ngang tàng...

Tóm lại, bản nhạc, khi đã đi vào lòng người, nó có khả năng được "hát lại" mãi mãi dù nhạc sĩ và ca nhân đã xa. Những bài ca như Rừng Lạng Sơn của Phạm Duy, có thể biến một kẻ tầm thường thành "ngang tàng", một kẻ chưa yêu nước phải yêu nước, một kẻ thờ ơ với lịch sử, làm nên lịch sử. Kháng chiến dinh dưỡng bằng âm nhạc. Nghệ sĩ là nhà ảo thuật, có thể làm được tất cả: Xui kẻ không hùng làm việc anh hùng như những hồn xưa trên đường Lạng Sơn âm u ù u ! trong tiếng gà bình minh, với những màu áo chàm phất phới trong mây mờ...

Cấu trúc nhạc kháng chiến của Phạm Duy xoay tròn quanh ma lực trữ tình ấy: Đem những địa danh lồng vào lòng người, vào tình yêu: Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng, thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang, nửa đêm trông ánh trăng vàng nhớ anh... Hỡi anh du kích tập bắn bên rừng, thuyền tôi đậu bến Đoan Hùng ...

Tiếng hát trên sông Lô lời thơ thoát thai từ ca dao, ý nhạc đượm tình quan họ, địa danh nằm trong thổ ngơi thế lữ, tự lực văn đoàn: Phạm Duy đến từ dân, đi vào dân bằng những yếu tố thuần túy văn hóa dân tộc, để tạo ra tiếng tình, lời tình, ông lấy tình làm ngôn ngữ thứ nhất, và điều đó khiến cho nhạc ông, không chết khi kháng chiến đã tàn.

Ở thời điểm cao nhất trong âm nhạc kháng chiến, Phạm Duy chiếm trọn bốn đỉnh của lòng người: Nương Chiều, Quê Nghèo, Bà Mẹ Gio LinhVề Miền Trung. Bốn tuyệt tác này gắn liền với tiếng hát Thái Thanh: Thái Thanh, một nhà ảo thuật khác của âm thanh, là tiếng sirène, tiếng hát ngư tiên đem những tác phẩm của Phạm Duy vào một vùng thủy phủ khác.

Nương Chiều (sáng tác ở Lạng Sơn năm 1947), mở ra bối cảnh đồng ruộng về chiều. Nhưng Phạm Duy không viết thế, ông gọi: nương chiều ! Nương vừa là nàng, vừa là nương khoai. Gọi chiều là nàng hay ví nàng như cảnh nương đồng về chiều, một ý thức lãng mạn hình như chưa thấy có trong thơ, trước đó. Bao nhiêu nhà thơ đã làm thơ về chiều, nhưng nương chiều của Phạm Duy, chỉ với hai chữ đã dựng nên một bối cảnh nghệ thuật: Thái Thanh, ẩn hiện lả lướt, trong nương chiều, mời gọi:
Chiều ơi ! Áo chàm về quẩy lúa trên vai
In hình vào sườn núi chơi vơi Ới chiều !


Tiếng hát ngư tiên vừa vang lên: Chiều ơi ! đã thoi thóp chết lịm trong Ới chiều ! Mỗi lần Chiều ơi ! mê hoặc cất lên, người nghe chưa kịp hết bàng hoàng, đã lại nhận thêm cơn lũ hấp hối Ới chiều ! Nhạc gây đam mê đến tắt thở; chỉ với hai chữ chiều ơi ! ới chiều ! nhạc tạo bối cảnh ngày tàn, đời tàn, bối cảnh giục giã của tình yêu, bối cảnh chiến tranh, cái chết nằm trong cuộc sống.

Với Quê Nghèo (Quảng Bình, 1948) Phạm Duy rời viễn ảnh lãng mạn và mộng mơ ở Nương Chiều, để tả thực, ông đưa ra những hình ảnh đau thương nhất của đồng quê Việt Nam, có lũy tre còm tả tơi, có những ông già rách vai, có tiếng o nghèo thở dài... mà có lẽ chưa có nhà thơ hiện thực nào đưa ra những hình ảnh cực đau, rũ liệt, khắc sâu vào tim chúng ta như bài vị của những người đang sống trên quê hương đất cằn, sỏi đá. Rời Quảng Bình, ra Quảng Trị, Phạm Duy làm Bà Mẹ Gio Linh, kiệt tác của thời kháng chiến. Ở Bà Mẹ Gio Linh, Phạm Duy đã đưa ra một bi kịch Hy Lạp, mà cái chết tất yếu được "giới thiệu" ngay từ đầu với tiếng nhạc pháp trường, tiếng trống tùng bi li... mở ra trước tiếng gọi hồn của Thái Thanh:
Mẹ già cuốc đất trồng khoai

Chất bi luồn qua tiếng nhạc và tiếng hát, nhưng lời ca lại bình thản, đơn thuần, còn có ý vui: Mẹ mừng con giết nhiều Tây. Ra công xới vun cầy cấy; điệp khúc cũng tươi: Con vui ra đi... Trong không khí gần như hy vọng và an lạc ấy đã có tiếng giết như báo điềm không lành, rồi tiếng cồng nện xuống như tiếng sét khi Thái Thanh loan:
Quân thù đã bắt được con.
Đem ra giữa chợ cắt đầu.
Hò ơi, ới hò !

Bí quyết của Phạm Duy: giới thiệu cái chết từ đầu, nhưng giấu nó trong cuộc sống, trong niềm vui cuộc sống hàng ngày, rồi ở lúc không ngờ nhất, ông tung nó ra như một xác định: Cái chết nằm trong cuộc sống, nó có thể chiếm ta bất cứ lúc nào: Bất kỳ là thân phận con người. Ân oán là một thực tại, đó là những tư tưởng triết lý sâu xa ngụ trong tác phẩm. Đến "hồi ba" cuộc sống lại trở lại bình lặng như thường: mẹ già nấu nước chờ ai ... bộ đội đã ghé về chơi. Sau cái chết của con, mẹ vẫn sống, vẫn phải sống, và đó là bản án chung thân của kiếp người.

Sau Bà Mẹ Gio Linh, Về Miền Trung (Đại Lược, 1948) đằm hơn, Phạm Duy trải lòng mình trên quê hương, một miền thùy dương bóng dừa ngàn thông. Về Miền Trung, Thái Thanh hát những tàn phá sau chiến tranh bằng chiều dầy của đất nước, chiều sâu của tang tóc:
Người đi trên đống tro tàn
Thương em nhớ mẹ hương vàng về đâu
Chiều khô nước mắt rưng sầu
Than thân thiếu phụ nát đầu hài nhi.
Hò hô ! Hò hô !

Trong Về Miền Trung, Phạm Duy đưa đô thị vào tác phẩm, có lẽ là lần đầu: Về miền Trung, còn chờ mong núi về đồng xanh, một chiều nao đốt lửa rực đô thành. Bài hát tiên tri sự chia lìa với núi rừng để vào thành. Mất núi rừng , mất miền Bắc. Nhưng Về Miền Trung còn những giá trị nghệ thuật khác: Trong những đỉnh nhạc kháng chiến Phạm Duy, Về Miền Trung được Thái Thanh diễn tả đạt nhất, lâu dài nhất. Mỗi âm Thái Thanh buông ra, như những giọt ngọc sống, có tâm hồn và sinh mệnh khác nhau. Phạm Duy quyện thơ và nhạc với hồn nước, hồn người, Thái Thanh đem hồn mình, thể xác mình, vũ trụ âm thanh của mình, hòa đồng với tác phẩm của Phạm Duy để tạo nên một ánh tinh cầu mà có lẽ, người nghe, còn nhiều trăm năm sau cũng không thể tìm thấy một sự gặp gỡ nào giữa nhạc sĩ và ca nhân ở chừng mức cao, sâu đến thế.

Về Miền Trung, với những hò hô, kết hợp Hò ! và Hô ! tiếng đầu có ý mời gọi: Gắng làm chung một việc (hò dô ta), tiếng sau vang lên âm hưởng chung cục, như ô hô ! Thượng hưởng ! trong văn tế. Về Miền Trung báo điềm chấm dứt kháng chiến, báo trước một giai đoạn khác của Phạm Duy, khởi đầu bằng Tình Hoài Hương, Tình Ca.

Mùng 1 tháng 5 năm 1951, từ Khu Tư (Thanh Hóa) về thành, Phạm Duy cùng gia đình ở lại Hà Nội một tháng rồi vào Sài Gòn. 1952, viết Tình Hoài Hương, Phạm Duy xác định chỗ đứng của người ly hương: vào Nam nhớ Bắc, ở đây ông cũng vẫn đi trước thời đại, hai năm sau, đất nước chia đôi, tâm sự riêng ông trở thành tâm sự chung của thế hệ di cư:
Quê hương tôi, có con sông đào ngây ngất
Lúc tan chợ chiều xa tắp
Bóng nâu trên dường bước dồn

Tình Hoài Hương, không gọi thanh niên lên đường nữa, mà là tiếng nhận diện Quê hương! Tiếng gọi tại chỗ, tiếng gọi của người ở trên quê hương mà vẫn nhớ quê hương, Nam nhớ Bắc. Tiếng mình gọi tên mình, tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ (TTT), tiếng đã biết đau thương nằm trong da thịt, tiếng từng trải của tuổi chín mùi, của một đất nước chưa nguôi cuộc chiến này đã vội dìu nhau vào cuộc chiến khác. Tình Hoài Hương báo hiệu những giọt nước mắt sẽ về miền quê lai láng, một miền quê sắp bị chặt đôi, đầu nhớ đuôi, đuôi nhớ đầu, tràn trong lũ lụt nước mắt

Với Tình Ca (Sài Gòn, 1953), Phạm Duy đào sâu niềm nhớ khôn nguôi ấy và đem tình yêu khỏa lấp cái bể buồn xa cách muôn trùng ấy. Mở đầu là một xác định: Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời. Người ơi ! Xác định này càng lúc càng trở nên tha thiết, cấp bách, trở thành khẳng định, đi vào lịch sử, đào sâu lòng đất, vào trong bản ngã của con người:
Tiếng nước tôi ! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi
Tiếng nước tôi ! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi. Nước ơi !

Tiếng gọi ở đây là tiếng tán thán. Chấm than sâu xuống như tìm móng của Trường Sơn: Đất nước tôi ! Dẫy Trường Sơn ẩn bóng hoàng hôn ! Phạm Duy trong kháng chiến ngược xuôi khắp nước, tiếng gọi trong kháng chiến là tiếng gọi xung phong, xông trận. Tiếng gọi Tình Ca là tiếng gọi tự tại, sâu xuống, ai ở đâu nguyên đấy, cứ yêu ngôn ngữ, yêu tiếng mẹ như tiếng lòng mình. Chẳng cần theo ai, chẳng cần giống ai, chờ ai, đường ta ta cứ đi. Tình Ca, qua tiếng hát Thái Thanh, đã đưa tiếng nước tôi lên đối tượng hàng đầu của tình yêu, bởi tiếng nói của một dân tộc chính là bản ngã của dân tộc ấy, cái mà không có gì triệt hạ được. Tình Ca mở đầu, dẫn đến Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam... những trường ca đưa người lữ hành xuyên Việt, đi từ ngôn ngữ, qua địa lý, lịch sử vào lòng người, vừa tạo dựng, vừa khám phá thể xác và tâm hồn mẹ Việt Nam trong nhịp điệu ngũ cung và lời thơ xưng tụng những vinh dự lầm than của một dân tộc. Toàn bộ Tình Hoài Hương, Tình Ca, Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam tạo nên một chủ nghĩa dân tộc trong âm nhạc, đặc chất Phạm Duy, mà có lẽ ít dân tộc nào có một nhà soạn nhạc khắc được những nét đặc thù của dân tộc mình một cách sâu sắc đến thế. Ở đây, Phạm Duy đưa tiếng mẹ lên đỉnh cao nhất của cuộc tình, và sau này, khi ông phổ nhạc Truyện Kiều, ông lại xướng khúc tiếng mẹ của Nguyễn Du thêm một lần nữa, trong âm nhạc. Tình Ca bắt buộc phải dẫn đến Nguyễn Du, bởi khi nhạc sĩ đã đem "tiếng nói" của dân tộc ông lên làm người tình thứ nhất, thì ông không thể nào bỏ qua Truyện Kiều, bởi lời Nguyễn Du là tiếng Việt ở nấc thang tinh túy nhất.

Trong cõi tình của Phạm Duy, tình yêu đôi lứa đứng riêng một cõi. Cho tới đây, Phạm Duy mới mở những thế giới quê hương, dân tộc, tình người, nhưng đến ngày đôi môi đã quyết trói đời người (Ngày Đó Chúng Mình, Sài Gòn, 1959), ông mở cửa tình yêu: một thế giới lãng mạn, tuyệt vọng, mà đau khổ, chia lìa không phân biên giới: tìm trong đêm rách rưới, cơn mơ nào lẻ loi. Ngày đôi ta chôn vơi tiếng hát đã lạc loài, chôn kín tiếng thơ rơi, ngậm ngùi rơi... Ngày đôi môi thương môi đã xé nát nụ cười... Trong thi ca Việt Nam, dường như chưa có bài thơ tình nào đau xót đến thế, tuyệt vọng vũ bão đến thế. Nhạc sĩ khai sinh cuộc tình: Ngày đó có em đi nhẹ vào đời, rồi khép lại: Ngày đó có em ra khỏi đời rồi, trong một khoảnh khắc, và trong khoảnh khắc âm nhạc đó, ông đã mở khép bao nhiêu tâm hồn, bao nhiêu cuộc tình, bao nhiêu thế hệ.

Bài Cỏ Hồng (Đà Lạt, 1970) rực lên những choáng váng thể xác đồi nghiêng nghiêng, cỏ lóng lánh, rồi rung rinh, bừng thoát giấc lành... trời trong em, đồi choáng váng, rồi run lên cùng gió bốn miền. Phạm Duy đã nắm bắt được toàn năng âm nhạc và thi ca để tạo nên cỏ hồng, một nhạc phẩm tác hợp dục tính, thiên nhiên, thi ca và âm nhạc ở cung bậc thượng thừa, khiến người nghe lạc mình vào những rung cảm thể xác của cỏ hồng, mất mình, tưởng mình là đối tượng của cỏ hồng. Khả năng mê hoặc ở đây đã đạt đến dứt điểm.

Ở bài Đường Chiều Lá Rụng (Sài Gòn, 1958), Phạm Duy đào sâu vũ trụ trống vắng của con người trong tình yêu, bằng lời thơ trác tuyệt, ẩn trong tiếng nhạc vút cao, vút trầm, uyển chuyển như tiếng hát liêu trai của Thái Thanh, nhanh và cực kỳ quyến rũ:
Chiều rơi trên đường vắng, có ta rơi giữa chiều
Hồn ta theo vạt nắng, theo làn gió đìu hiu
Lá vàng bay ! Lá vàng bay !
Như dĩ vãng gầy, tóc buông dài, bước ra khỏi tình phai
Lá vàng rơi ! Lá vàng rơi !
Như chút hơi người giã ơn đời trên nẻo đường hấp hối.
Hoàng hôn mở lối, rừng khô thở khói,
Trời như biển chói, từng chiếc thuyền hồn lướt trôi
Neo đứt một lần cuối thôi
Cho cánh buồm lộng gió vơi, gió đầy.
Chiều ôm vòng tay, một bó thuyền say
Thuyền lơ lửng mãi
Từng tiếng xào xạc lá bay
Là tiếng cội già khóc cây
Hay tiếng lòng mình khóc ai, giờ đây?

Chiều chưa thôi trìu mến, lá chưa buông chết chìm
Hồn ta như vụt biến, bay vờn trong đời tiên
Lá vàng êm ! Lá vàng êm !
Như mũi kim mềm sẽ khâu liền kín khung của tình duyên
Lá vàng khô ! Lá vàng khô !
Như nét môi già đã nhăn chờ lên nẻo đường băng giá.
Chiều không chiều nữa,
Và đêm lần lữa, chẳng thương chẳng nhớ
để những lệ buồn cánh khô
Rơi rớt từ một cõi mơ,
Nghe đất gọi về tiếng ru hững hờ
Còn rơi rụng nữa, cành khô và lá
Thành ngôi mộ úa
Chờ đến một trận gió mưa
Cho rũa tình già xác xơ
Cho biến thành nhựa sống nuôi tình thơ...
Chiều tan đường tối, có ta như rã rời
Hồn ta như gò mối đang chờ phút đầu thai...

Ở đâu, Phạm Duy cũng có chất thơ trong nhạc và chất nhạc trong thơ, nhưng chỉ riêng với lời thơ, Đường Chiều Lá Rụng đã là một tuyệt tác thi ca: tiếng thơ lẫn trong tiếng thở, những hình ảnh kỳ dị phóng ra từ tiềm thức, chạy ruổi theo nhau. Chuyển động lôi cuốn "ta" đi theo cơn lốc ngầm trong vô thức: chiều rơi, ta rơi, hồn ta theo vạt nắng, lá vàng bay như dĩ vãng gầy, trên nẻo đường hấp hối... tất cả những hình ảnh siêu thực này dấy lên từ bên trong ta? Hay đó là một đoạn phim ngoài đời, bị bóp méo trong cái nhìn hoảng loạn của một "ta" hoang tưởng? Đường Chiều Lá Rụng là một tác phẩm lạ kỳ trong nhạc trình Phạm Duy, nó luyện quánh những cô đơn, đam mê, nỗi chết, trong tình yêu và trong tình đời, nó đưa ra một Phạm Duy ngoài Phạm, một Phạm Duy chẳng Duy, xa rồi thời Công chúa Huyền Trân, nước non ngàn dặm ra đi, xa rồi thời Mẹ Việt Nam, Mẹ Cửu Long, mở lòng ra trùng dương, cửa biển. Phạm Duy ở đây, một Phạm Duy không vĩ mô, không bao la bát ngát, mà quay trở về với cái ta, cái vi mô, mổ xẻ não trạng của chính mình, tìm những hấp hối, những băng hoại của con người ẩn sâu trong tiềm thức, đẩy những ẩn ức đó ra bằng những hình ảnh được xây dựng trên "kỹ thuật tạo hình" siêu thực, đặt những yếu tố rất xa nhau lại gần nhau, như nét môi già đã nhăn chờ lên nẻo đường băng giá, chiều không chiều nữa, ... những hình ảnh chứng tỏ ông đã xử dụng tiếng Việt trong cơn mê sảng, một cách tuyệt vời như một phù thủy của âm thanh, rồi ông lại phủ lên những chữ thấm đẫm chất nhạc ấy, một đặc ân thứ nhì: âm nhạc thuần túy.cc Gần một nghìn lời ca, gần năm trăm bài thơ (của các thi sĩ khác) đã được Phạm Duy phổ nhạc, không thể đếm hết những thành công của Phạm Duy trong sự giao thoa giữa âm chữ và âm nhạc thành một giao hưởng tuyệt vời, như Đường Chiều Lá Rụng, Cỏ Hồng, Ngày Đó Chúng Mình, Thương Tình Ca, Trả Lại Em Yêu, Nghìn Trùng Xa Cách, Đừng Xa Nhau, Tìm Nhau, Nha Trang Ngày Về, Cửu Long Giang, Viễn Du, Chiều Về Trên Sông, Hẹn Hò, Kiếp Sau, Chiều Đông, Ngậm Ngùi, Kỷ Vật Cho Em, Tình Quê, Tỳ Bà, Đạo Ca, Ngày Xưa Hoàng Thị, Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng, Tưởng Như Còn Người Yêu ...

Ở tuổi tám mươi, nhạc sĩ trở lại Kiều, ông tìm về Nguyễn Du như đã suốt một đời vinh thăng tiếng mẹ, như muốn có một "hợp tác" giữa hai nghệ sĩ lớn, không cùng thời nhưng cùng một trái tim: yêu tiếng Việt và đưa tiếng Việt lên làm người tình thứ nhất, xây dựng tiếng Việt như xây dựng tâm hồn và thể xác chính mình. Với Kiều, Phạm Duy lại mở thêm một thế giới mới: thế giới mà âm thanh có quyền năng tạo dựng bối cảnh. Xưa nay đọc Kiều chúng ta thấy Nguyễn Du bầy ra nghịch cảnh bằng chữ, qua chữ; bây giờ nghe Kiều, chúng ta đi vào bối cảnh Phạm Duy trong đó âm nhạc, không chỉ giữ địa vị "minh họa" lời Nguyễn Du, như nhạc sĩ đã khiêm tốn xác định, mà nhạc đưa chúng ta đi xa hơn: tạo ra một tác phẩm khác nguyên bản, có chỗ nhạc minh họa cho lời như Kiều đi thanh minh, có chỗ nhạc xoáy sâu xuống âm vực của nguyên bản như Kiều gặp Đạm Tiên, đôi khi nhạc sĩ sáng tạo những bầu trời khác như Kiều gẩy đàn: Phạm Duy đã "bổ xung" Nguyễn Du bằng những khúc nhạc tuyệt vời: Hán Sở Tranh Hùng, Tư Mã Phượng Cầu, Kê khang, Chiêu Quân... Phải có một đời, một giá trị, một dân tộc, một con người trong Phạm Duy, như Phạm Duy mới lấp bằng được "chỗ trống" mà Nguyễn Du để lại. Nhạc Phạm Duy định vị vai trò của Phạm Duy trong lòng dân tộc, trong lòng ngôn ngữ, lịch sử của dân tộc và của cá nhân chúng ta, không chỉ trong thế kỷ XX mà sẽ còn kéo dài sau thế kỷ, ba trăm năm sau...

Paris 25/4/2002
Thụy Khuê


>>>Hội Luận - Triển Lãm